Lưu Nguyễn Đạt, TS, LS
7-8-2012 - Việt Thức
Thuật ngữ “Đệ Tứ Quyền” có lẽ được ghi nhận lần đầu bởi học
giả Pháp, Alexis de Tocqueville, trong tác phẩm De la démocratie en
Amérique[1833], khi xác định bốn quyền lực như sau:
quyền lực trung ương [pouvoir fédéral, cấp liên bang],
với sự phân nhiệm thành quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp;
quyền lực địa phương [pouvoirs fédérées, cấp tiểu
bang];
quyền lực vận động hành lang [lobbies, tranh thủ lá phiếu];
quyền lực của báo chí, truyền thông [presse].
Tại Hoa Kỳ, báo chí thường được nhắc tới như sự thể hiện đa dạng của đệ tứ quyền, với khả năng và nhiệm vụ đương đầu với ba quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Lúc ban đầu, nhà soạn thảo Hiến Pháp Hoa Kỳ [1787] chỉ đặt
trọng tâm vào cơ cấu tổ chức chính quyền trung ương, trên nền tảng tam quyền
phân lập, hay phân quyền, phân nhiệm giữa quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp,
với tác dụng kiểm soát tạo thăng bằng [check-and-balance] trong chính
quyên.
Phải đợi tới năm 1791 khi mười Tu Chính Án đầu tiên của
Hiến Pháp Hoa Kỳ được Quốc hội phê chuẩn dưới danh xưng “Tuyên Ngôn Dân
Quyền” [Bill of Rights], tiếp theo bởi ba Tu Chính Án XIII [1865], XIV [1868],
và XV [1870], quyền lực của người dân mới thực sự được xác định
và bảo vệ từ cấp Liên bang tới cấp Tiểu bang. Căn cứ vào Tu Chính Án Một,
luật pháp không được biệt đãi một tôn giáo, lẫn cấm đoán tự do tín ngưỡng liên
hệ; không được cản trở quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; quyền hội họp ôn
hoà và thỉnh cầu chính quyền sửa sai:[1]
Báo chí [the press] đích danh được nêu lên tại Tu Chính
Án Một, song song với những quyền công dân khác. Vậy, báo chí và các cơ sở
truyền thông, truyền tin liên hệ cần làm những gì để trở thành đệ tứ quyền hiến
định?
Trước hết, Hoa Kỳ không có một bộ thông tin nhà nước đặc
trách khơi mào, chỉ thị, kiểm duyệt và hạn chế tin tức, mà lại để các hệ thống
truyền thông và truyền hình tư chủ động làm công việc quảng bá những điều cần
biết, cần hiểu, trên căn bản tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, theo mức độ tự kiểm
và lương tâm nghề nghiệp. Người làm báo, truyền thông và truyền hình
tại Hoa Kỳ và các nước tự do trên thế giới khi có nhiều quyền hành và thế lợi
thì cũng có nhiều trách nhiệm và bổn phận, nhất là về mặt thủ tục nghề nghiệp
trọng hiến, trọng pháp và về mặt luân lý xã hội, tôn trọng công lý, lẽ phải và
lý tưởng nhân đạo.
2. Thế Lực và Trách Nhiệm của Báo Chí Truyền Thông
Thế lực của báo chí truyền thông, truyền hình phát xuất từ sứ
mạng căn bản bảo vệ nền dân chủ. Trong mọi nghiệp vụ, nhà báo phải tuân
theo và bảo trọng tự do ngôn luận, tự do tư tưởng tôn giáo, quyền hội họp và thỉnh
cầu chính quyền sửa sai; quyền nhân dân được bảo vệ chính đáng.
Cũng theo quan niệm của cựu nghị sĩ Gary Hart, trong tác phẩm The
Fourth Power,[2] truyền
thông có bổn phận tham dự vào trọng tâm đệ tứ quyền như một nguồn lực bảo trọng
các quyền hành dân sự hiến định, nhất là tự do ngôn luận, tự do báo chí thành một
mẫu mực chiến lược toàn cầu.
Thật vậy, báo chí ứng dụng hiến pháp và luật pháp hiện hành
quy định tự do tin tức [Freedom of Information Act] để thi hành nghiệp vụ phóng
sự, điều tra và phổ biến sự thật; đăng tải những sai trái trong công vụ, những
bấp bênh, thâm hụt từ nền tảng tới các cơ sở kinh tế tài chính điển hình; tường
trình những tai ương nhân tạo trong khu vực xã hội, an ninh, quốc phòng v.v., hầu
kịp thời thông báo quần chúng và cảnh giác các nhà hữu trách liên hệ về từng nội
vụ.
Điển hình là sau vụ Watergate [1972], mà hai phóng
viên Carl Bernstein và Bob Woodward của Washington Post đã điều tra
và đưa lên mặt báo, TT Nixon đã phải giải nhiệm [1974] và chính sách ngoại giao
của Hoa Kỳ cũng thay đổi, cùng ảnh hưởng đối với Việt Nam, Trung Hoa và Nga
Sô.
Nhờ sự can thiệp của đệ tứ quyền trong nhiệm vụ kiểm soát và
thông tin, các cơ sở chính quyền và tổ chức liên hệ đã phãi gìn giữ một mức độ
hữu hiệu trong sáng, khi thi hành nhiệm vụ.
James Mill [1773-1836] là người đầu tiên nói tới khái niệm
“canh chừng” của giới báo chí, dưới danh hiệu “watchdog”, với sứ mạng bảo
tồn giá trị tự do dân chủ. Cũng theo khái niệm canh chừng và bảo trọng những
giá trị nhân quyền mà một hiệp hội quốc tế phi chính phủ đã dùng danh xưngHuman
Rights Watch. Khái niệm canh chừng này cũng tương đương với khái niệm kiểm
soát tạo thăng bằng [check-and-balance] giữa quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Chỉ khác là ảnh hưởng đối chiếu ở đây cốt để duy trì mức độ hài hoà
song phương, chính trực giữa công quyền và công dân, giữa biện pháp cai trị và
cứu cánh phục vụ dân chúng, giữa chính thể và tư nhân. Như vậy báo trí giữ
đúng vai trò thông tin va khuyến khích một trạng thái trọng pháp, trọng sinh,
xây dựng tiến hoá trong thế đối sử bình thường giữa quyền lực cai trị và
giới bị trị.
Mức độ hài hoà song phương sẽ suy giảm đến độ mất hẳn đi, nếu
có sự lạm quyền, vi phạm của bất cứ bên nào. Giới truyền thông có bổn phậm
kịp thời thông báo lẫn cảnh tỉnh những thế lực liên hệ. Truyền thông báo
trí và cả dư luận quần chúng đóng vai trò “xì hơi” cảnh cáo, trước khi có náo
loạn, dấy biến. Người dân phải biểu tình, chống đối, nổi loạn, khi chính
quyền đi ngược lại với lòng dân, ngược lại với công lý, hay sao nhãng quyền lợi
và an sinh của dân.
Ngay tại Hoa Kỳ, sau khi ra một loạt những Tu chính XIII [1965] bãi bỏ chế
độ nô lệ, Tu chính XV [1870] cho phép toàn dân đi bầu, không phân biệt chủng tộc,
màu da, sau khi đã thảo hơn 10 Đạo Luật về Civil Rights Act từ năm 1875 cho tới
1964, hiện tượng kỳ thị, phân cách [discrimination & segregation] sắc dân
da đen vẫn mặc nhiên hoành hành trên toàn quốc. Do đó, báo trí mọi giới đã canh
chừng, cảnh cáo và bắt buộc phải truyền tin mạch lạc về những vụ xung đột, bạo
động ngay trong nước, điển hình các cuộc nổi loạn tại Harlem [1964], Watts
[1965], Detroit [1967], và gần đây là cuộc phá phách các khu phố Los Angeles
[1992] để chống đối cảnh sát đánh đập tàn nhẫn Rodney King. Obama đã được
chọn làm ứng cử viên Dân Chủ trong cuộc bầu cử Tổng Thống 2008 thay vì Hilary
Clinton, “phần nào” vì ảnh hưởng của giai đoạn kỳ thị chủng tộc, da màu trước
đây, cùng với cái “mặc cảm tội lỗi” của thành phần cấp tiến Hoa Kỳ.
Trong giai đoạn hiện đại, truyền thông báo chí tự do trên toàn thế giới cũng đứng
lên thông tin và cảnh cáo về những sai trái nơi chính quyền, những tai ương
nhân tạo do chiến tranh, nổi loạn xẩy ra trên khắp thế giới, tại Phi Chấu,
Trung Âu, Trung Đông, Á Châu, nhất là về những vụ trà đạp nhân quyền, cướp bóc
tài sản, phá hoại kinh tế tại Trung Quốc, Việt Nam. Đương nhiên giới truyền
thông nhà nước cộng sản chỉ sử dụng sứ mạng loan tin một chiều để a tòng với
chính quyền phạm pháp, để bênh vực kẻ lạm quyền triệt hại dân oan, kẻ hèn với
giặc ác với dân đã từng bán ranh, bán đảo.
Do đó, thế lực của báo chí truyền thông còn phải tương xứng với sứ mạng đăng tải
tin tức xác thực, thông tri kiến thức, và phổ biến những điều cần biết để người
dân tìm hiểu và chọn lựa thái độ liên hệ với thời cuộc. Nhờ vậy, báo chí
truyền thông có bề thế gây ảnh hưởng sâu sắc trên dư luận quần chúng.
Nhưng cũng có lúc thi hành nghiệp vụ, báo chí có thể thiếu sót hoặc sơ ý đăng tải
tin tức sai lạc. Trong những trường hợp tương tự, báo chí tự động phải kịp
thời đính chính, sửa sai đúng nơi, đúng mức.
Tệ hơn nữa, báo chí khi loan tin tức thất thiệt với dụng ý khai thác, trục lợi,
sẽ mất quyền tự do ngôn luận [unprotected speech] và sẽ bị chế tài. Thật
vậy, toà soạn, phóng viên, và người đăng tin thất thiệt có thể bị liên đới về mặt
trách nhiệm dân sự, nếu họ chủ tâm đăng tải hoặc tái đăng những tin tức có tính
cách mạ lỵ, phỉ báng, sai sự thật. Vì thế nhà báo phải thận trọng kiểm
soát bài vở đăng tải, phải kiểm chứng tài liệu và nguổn gốc tin tức sử dụng.
Riêng đối với các chính khách, các nhân vật có tên tuổi, “nổi
tiếng trong xã hội”, được chỉ định chung là nhân vật của quần chúng [public
figures],[3]nếu
muốn kiện nhà báo đăng tin sai quấy, nguyên đơn không những phải chứng minh [a]
có sự thất thiệt, bêu xấu rõ rệt, có mạ lỵ phỉ báng thậm từ, làm thiệt hại cho
đương sự, mà còn phải chứng minh [b] nhà báo có manh tâm, ác ý [biết tin sai mà
vẫn sử dụng, vẫn đăng tải], hoặc quá độ chểnh mảng coi thường hư thực [không kiểm
chứng căn bản xác thực] của nội vụ, hay của tài liệu đem sử dụng.[4]
Như vậy, thế lực của báo chí truyền thông được xác định bởi
sứ mạng gìn giữ truyền thống dân chủ hiến định, đồng thời bởi nghiệp vụ tôn trọng
sự thật và phục vụ giá trị nhân bản của người dân, của độc giả. Nếu không
tôn trọng giá trị hiến pháp, nếu không bênh vực mẫu mực dân chủ và lý tưởng
nhân đạo, báo chí sẽ đi ngược lại với công lý và lẽ phải, sẽ lầm lẫn và gây ảnh
hưởng rối loạn nơi quần chúng.
Đó là thứ báo chí gia nô, bị tiền tài và thế lực công quyền
mua chuộc, xỏ mũi, bịt mắt, bịt miệng. Đó là thứ báo chí pa-nô, đăng tải
tin tức thảo sẵn, nghiêng ngửa với tuyên truyền, tuyên huấn, chỉ thị một chiều.
Loại báo chí sự-thật-nhà-nước kiểu Pravda,[5] do
công an, đảng phiệt, tài phiệt giựt dây, chế tạo, không thể nào đem ra so sánh
với thuật ngữ “đệ tứ quyền” một cách tử tế, trong
sáng.
Tạm Kết
Từ thế kỷ 20 tới nay, đệ tứ quyền không còn thu hẹp trong loại báo chí ấn loát
đăng tải [presse écrite] mà đã bành trướng thành cơ sở truyền thanh, truyền
hình, và gần đây thành mạng lưới diễn đàn [websites], điện báo [web pages], ký
sự mạng lưới như blog [viết tắt từ “web log”], Facebook, Youtube v.v.
Trong thế năng nổ của truyền thông hiện đại, “tất nhiên
một nền báo chí tự do có thể là tốt hoặc xấu. Nhưng chắc chắn, nếu không
có tự do ngôn luận, ắt sẽ tai hại vô cùng. Tự do là cơ hội cải tiến trong
khi nô chế chỉ đem lại tì tịch và khốn đốn [Albert Camus, 1960].[6]
Nhưng dù sinh hoạt ở bất cứ dạng nào, bất cứ ở đâu, do bất cứ
lực lượng nào đảm trách thi hành, đệ tứ quyền nếu muốn giữ đúng sứ mạng và khả
năng tồn tại vẫn phải tôn trọng những tiêu chuẩn căn bản về tự do ngôn luận, phẩm
giá nhân bản, công lý và nhân ái. Đệ tứ quyền phải luôn luôn của dân, bởi
dân, vì dân [Of the People, By the People, For the People].
TS-LS Lưu Nguyễn Đạt
http://www.vietthuc.org/2012/08/07/th%E1%BA%BF-l%E1%BB%B1c-va-trach-nhi%E1%BB%87m-c%E1%BB%A7a-d%E1%BB%87-t%E1%BB%A9-quy%E1%BB%81n-hi%E1%BB%87n-d%E1%BA%A1i/
http://www.vietthuc.org/2012/08/07/th%E1%BA%BF-l%E1%BB%B1c-va-trach-nhi%E1%BB%87m-c%E1%BB%A7a-d%E1%BB%87-t%E1%BB%A9-quy%E1%BB%81n-hi%E1%BB%87n-d%E1%BA%A1i/
Bài đăng lần đầu March 16, 2010
đăng lại August 7, 2012
[1] Bất
cứ đạo luật nào được ban hành ngược lại tinh thần bản tu chính trên sẽ phải coi
là “bất hợp hiến”.
[2] Gary Hart, The Fourth Power: a new grand strategy for the United States in the 21st century (Oxford University Press, 2004);
[3] Theo án lệ Curtis Pub. Co v. Butts & Associated Press v. Walker, 388 U.S. 130 [1967]
[4] New York Times v. Sullivan, 376 U.S. 254 [1964]
[5] Pravda, tiếng Nga có nghĩa nghịch lý là “Báo Sự Thật”, loại công bố một chiều.
[6] Lưu Nguyễn Đạt, “Khái Niệm về Tự Do Ngôn Luận”, Tư Tưởng Việt, 2003, trang 120, endnote # 24. “Une presse libre peut, bien sûr, être bonne ou mauvaise, mais sans liberté, elle ne pourra qu’être mauvaise… », Albert Camus, Ecrivain, France, 1960.
[2] Gary Hart, The Fourth Power: a new grand strategy for the United States in the 21st century (Oxford University Press, 2004);
[3] Theo án lệ Curtis Pub. Co v. Butts & Associated Press v. Walker, 388 U.S. 130 [1967]
[4] New York Times v. Sullivan, 376 U.S. 254 [1964]
[5] Pravda, tiếng Nga có nghĩa nghịch lý là “Báo Sự Thật”, loại công bố một chiều.
[6] Lưu Nguyễn Đạt, “Khái Niệm về Tự Do Ngôn Luận”, Tư Tưởng Việt, 2003, trang 120, endnote # 24. “Une presse libre peut, bien sûr, être bonne ou mauvaise, mais sans liberté, elle ne pourra qu’être mauvaise… », Albert Camus, Ecrivain, France, 1960.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét