12-8-2012 - VOA
Việt Nam thiếu nhiều thứ. Về kinh
tế: rất nhiều người thiếu công ăn việc làm; phần lớn dân chúng thiếu tiền bạc,
thiếu cả những nhu cầu cần thiết nhất cho một cuộc sống bình thường. Về xã hội,
thiếu sự ổn định và không có bảo đảm gì cho tương lai cả. Về giáo dục, thiếu
trường tốt và thầy cô giáo tốt; thiếu một chương trình cũng như một cơ chế giảng
dạy hợp lý và hiệu quả; thiếu không khí tốt lành để đạo đức và học thuật được
phát triển. Về chính trị, cũng thế, nhìn đâu cũng thấy thiếu: thiếu dân chủ,
thiếu tự do, thiếu công bằng, thiếu minh bạch, v.v.
Nhưng ở đây, tôi chỉ tập trung vào một cái thiếu mà tôi cho là quan trọng nhất
trong tình hình hiện nay: thiếu lãnh đạo.
Nhận định ấy, thoạt nghe, dễ có cảm tưởng như nghịch lý. Trên nguyên tắc, Việt
Nam được lãnh đạo bởi đảng Cộng sản, mà đảng Cộng sản hiện nay lại có đến 3,6
triệu đảng viên. Số đảng viên ấy lại được lãnh đạo bởi 175 ủy viên trong Ban chấp
hành Trung ương. Số ủy viên ấy lại được lãnh đạo bởi 14 người trong Bộ chính trị,
cơ quan quyền lực cao nhất của đảng đồng thời của cả nước. Rõ ràng đó là một
con số khổng lồ cho thành phần lãnh đạo một đất nước. Ở các nước dân chủ, chẳng
hạn ở Mỹ hay ở Úc, nói đến giới lãnh đạo, người ta chỉ kể đến Tổng thống, Phó tổng
thống (ở Úc là Thủ tướng và Phó thủ tướng), nội các và vài người lãnh đạo trong
Quốc Hội. Hết. Tổng cộng, nhiều lắm là 20-30 người.
Tuy vậy, nhìn vào thực tế, đặc biệt những năm gần đây, điều hầu như ai cũng thấy
là Việt Nam hoàn toàn thiếu lãnh đạo. Tất cả, từ Bộ chính trị đến Trung ương đảng,
từ chính phủ đến Quốc hội, ngồi đó, thật nhiều; mặt mày ai cũng hồng hào phè phỡn,
nói năng như thánh phán, nhưng lại không có ai thực sự lãnh đạo cả.
Lãnh đạo chứ không phải quản lý.
Quản lý là làm cho guồng máy chạy đều và chạy tốt, ít nhất trong từng thời điểm
nhất định. Lãnh đạo là định hướng cho cả guồng máy ấy vượt qua các thử thách
trong hiện tại cũng như trong tương lai để bảo đảm sự an toàn cũng như sự tốt đẹp
không phải chỉ trong một hai năm tới mà trong cả nhiều thập niên tới. Không phải
chỉ cho thế hệ này mà còn cho các thế hệ kế tiếp.
Ai cũng biết, từ mấy năm nay, một trong những thử thách nghiêm trọng nhất đối với
Việt Nam là vấn đề quan hệ với Trung Quốc. Các chính sách về lãnh thổ và lãnh hải
của Trung Quốc là một đe dọa trực tiếp đối với chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ
của Việt Nam. Không những chỉ có chính sách hay lời nói. Sự đe dọa được thể hiện
cụ thể bằng hành động: Trung Quốc cho xây dựng các cơ sở hành chính và quân sự
trên các hòn đảo vốn thuộc chủ quyền của Việt Nam; cho khai thác dầu khí trên
lãnh hải Việt Nam; ngăn chận các công ty ngoại quốc ký kết hợp đồng điều tra và
khai thác dầu khí do Việt Nam tổ chức ngay trong các vùng được xem là đặc quyền
kinh tế của Việt Nam; bắt bớ, thậm chí, giết chết các ngư dân Việt Nam đang
đánh bắt cá ở trong vùng lãnh hải của Việt Nam. Một số người Trung Quốc, thuộc
giới học giả cũng như giới quân sự, có khi khá cao cấp, thỉnh thoảng bắn tiếng
về một cuộc tấn công có quy mô lớn nhắm vào Việt Nam. Đó là chưa kể đến các âm
mưu lũng đoạn kinh tế, xã hội và chính trị của Trung Quốc. Công nhân Trung Quốc,
từ hợp pháp đến bất hợp pháp, tràn lan ở Việt Nam, ngay ở những địa điểm được
xem là có ý nghĩa chiến lược về quân sự. Có thể nói hiện nay Trung Quốc là nguy
cơ lớn nhất, nếu không muốn nói là duy nhất của Việt Nam.
Thật ra, ngoài Việt Nam, âm mưu bành trướng của Trung Quốc là một đe dọa đối với
rất nhiều nước khác. Trong các nước ấy, xa và lâu dài nhất, là Mỹ; gần và cụ thể
nhất là một số nước thuộc châu Á, từ Nhật Bản đến Phi Luật Tân, Hàn Quốc,
Malaysia, Brunei, nhưng đặc biệt, trầm trọng nhất là Việt Nam. Có ba lý do
chính: Một, nước có số đảo tranh chấp nhiều nhất là Việt Nam; hai, nếu con đường
chữ U thành hiện thực, nước bị ảnh hưởng nặng nhất cũng là Việt Nam; và ba, Việt
Nam là nước duy nhất có chung biên giới với Việt Nam. Nếu Trung Quốc chọn một
quốc gia nào đó trong khu vực để tấn công nhằm hợp thức hóa, bằng bạo lực, con
đường chữ U, nhằm biểu dương sức mạnh và nhằm uy hiếp tất cả các nước khác, nước
ấy chắc chắn sẽ là Việt Nam.
Tất cả những điều ấy, hầu như ai cũng biết. Cả thế giới đều biết. Người Việt, nếu
có chút sáng suốt, cũng đều biết. Biết, nên mọi người đều chờ đợi một chính
sách nhất quán và hiệu quả từ giới lãnh đạo. Tuy nhiên, cho đến nay, giới lãnh
đạo lại chọn một biện pháp dễ dãi nhất là né tránh việc công bố bất cứ một
chính sách nào, nghĩa là, nói cách khác, né tránh chính việc lãnh đạo của mình.
Trong các diễn văn, giới cầm quyền chỉ nói những nguyên tắc chung chung và sáo
rỗng như hợp tác và hữu nghị, như hai phương châm gọi là “4 tốt” (láng giềng tốt,
bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt) và “16 chữ vàng” (Láng giềng hữu nghị, hợp
tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai) do Giang Trạch Dân đưa ra
vào năm 1999. Hết. Nhưng đó chỉ là nguyên tắc và phương châm. Trong chính trị,
từ những nguyên tắc và phương châm chung chung như vậy, người ta cần đặt ra ít
nhất bốn vấn đề khác: Một, những nguyên tắc và phương châm ấy có còn hợp thời
và hợp lý hay không; hai, nếu còn, làm cách nào để thực hiện chúng, đặc biệt
trước những khiêu khích và đe dọa thường xuyên, hơn nữa, càng ngày càng tăng của
Trung Quốc, một kẻ rõ ràng không phải là “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí
tốt và đối tác tốt”; ba, nếu không, Việt Nam cần có chính sách gì để đối phó với
những hành động khiêu khích và đe dọa, thậm chí, âm mưu thôn tính của Trung Quốc;
và bốn, cần có những chiến thuật gì để hiện thực hóa chiến lược ấy?
Đó là những câu hỏi bình thường ai cũng đặt ra. Với tất cả, giới cầm quyền ViệtNam đều im lặng. Theo dõi các động thái của họ, người ta cũng không tìm được một
câu trả lời nào cả. Được xem là có quyền lực nhất trong Bộ chính trị và
trong đảng hiện nay là ba người: ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư; ông Nguyễn
Tấn Dũng, Thủ tướng; và ông Trương Tấn Sang, Chủ tịch nước. Có cảm tưởng như có
một sự phân công nào đó giữa họ với nhau: Nguyễn Tấn Dũng thì lo chuyện đối nội;
Nguyễn Phú Trọng thì ngọt ngào ve vuốt Trung Quốc; còn Trương Tấn Sang thì đi
tìm một số đồng minh khác để cân bằng lực lượng với Trung Quốc. Có vẻ thế.
Nhưng điều đó, nếu có thật, cũng không thực sự là lãnh đạo. Bởi lãnh đạo của một
đảng cũng như của một nước, nhất là khi đảng ấy lại là đảng cầm quyền duy nhất,
cần có một tiếng nói chung; hoặc ít nhất, một tiếng nói có nhiều sức nặng, có ảnh
hưởng và có khả năng chi phối guồng máy đảng và nhà nước nhất. Ở Việt Nam, tiếng
nói chung: không có. Tiếng nói nổi bật nhất: cũng không có. Những gì ông Nguyễn
Phú Trọng nói, người ta xem như ngớ ngẩn (xin nhớ lại bài nói về chủ nghĩa xã hội của Nguyễn Phú Trọng tại Cuba vào
ngày 10/4/2012). Những gì ông Nguyễn Tấn Dũng nói thì lại không còn chút uy tín
gì vì từ lâu ông bị xem là nói một đàng làm một nẻo (đặc biệt qua các vụ án
tham nhũng cũng như các vụ lỗ lã nặng nề của các công ty quốc doanh). Còn ông
Trương Tấn Sang thì bị xem là không có quyền lực thực sự: Vai trò của Chủ tịch
nước Việt Nam, từ xưa đến nay, vốn chỉ là một hư vị. Chỉ có ý nghĩa tượng
trưng.
Thành ra, dù có chăm chú lắng nghe và theo dõi lời nói cũng như hoạt động của cả
ba người đứng đầu đảng và chính phủ Việt Nam hiện nay, người ta cũng không thể
biết là họ muốn gì.
Họ, với tư cách tập thể cũng như với tư cách cá nhân, hoàn toàn không đưa ra một
chính sách nào cả. Không đưa ra một viễn kiến nào cả. Nghĩa là, nói tóm lại,
không thể hiện bất cứ một sự lãnh đạo nào cả.
Họ hoàn toàn né tránh bài toán hóc búa nhất hiện nay.
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được
đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường
của Chính phủ Hoa Kỳ.
http://www.voatiengviet.com/content/thieu-lanh-dao/1484889.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét