--------------
NGU TRUNG
NGU TRUNG
Nguyễn Hưng Quốc
18-8-2012
Quan sát tình hình chính trị Việt Nam gần đây, chúng ta không thể không đặt câu
hỏi: nhà cầm quyền tham nhũng, khinh rẻ dân chúng và khiếp nhược trước Trung Quốc
đến như vậy mà tại sao dân chúng nói chung vẫn im lặng và một số không ít người
vẫn tiếp tục ủng hộ họ?
Chúng ta tạm thời gạt bỏ câu hỏi thứ nhất. Cái gọi là im lặng của dân chúng bao giờ cũng là một bí ẩn. Im lặng có nhiều ý nghĩa và xuất phát từ nhiều lý do. Có sự im lặng của sự thỏa mãn nhưng cũng có sự im lặng của sự bất bình. Có sự im lặng của cảnh trời trong mây đẹp nhưng cũng có sự im lặng trước bão tố. Không ai biết trước được. Ở các xứ độc tài, nơi không có các cuộc điều tra dư luận lại càng không thể biết được. Năm ngoái, trước khi Hosni Mubarak bị lật đổ và trước khi Muammar Gaddafi bị bắn chết, không ai hiểu được sự im lặng của dân chúng Ai Cập và Libya cả. Cả các cơ quan tình báo lớn nhất của Tây phương cũng không hiểu.
Cái không-thể-hiểu xin tạm thời bỏ qua. Chỉ xin tập trung vào câu hỏi thứ hai: Tại sao vẫn có một số không ít người tiếp tục ủng hộ chính quyền?
Chắc chắn, với một số rất đông, là vì quyền lợi. Trên một blog trong nước, có người kể lại lời nói một số cựu chiến binh và thương binh: Mất chế độ, người ta cũng sẽ mất luôn cả hưu bỗng. Bảo vệ chế độ, do đó, cũng là bảo vệ quyền lợi của chính họ. Đó là cách lập luận của những người đã về hưu. Còn với những người đang tại chức, điều đó lại càng rõ. Phương châm của Công an Việt Nam thể hiện rất rõ điều đó: “Còn Đảng còn mình.” Mà không phải chỉ công an. Ở ngành nào cũng thế. Có đảng tịch là có chức và có quyền. Có chức và có quyền là tự nhiên có tiền. Tiền như mọc ra từ các tấm thẻ đảng. Lại là tiền nhiều nữa. Không làm gì cả cũng có tiền. Tiền do người ta… cúng. Bảo vệ đảng, do đó, trở thành việc bảo vệ kho bạc và kho vàng của chính mình.
Việc bảo vệ chính quyền vì quyền lợi của chính mình thời nào cũng có. Chính phủ càng phi nghĩa và phi nhân, quyền lợi càng lớn; quyền lợi càng lớn, sự bảo vệ càng tích cực. Tất cả những chuyện đó đều dễ hiểu.
Chúng ta chỉ bàn đến số người khác: Họ vẫn muốn bảo vệ chính quyền dù họ không được hưởng quyền lợi gì trực tiếp từ chính quyền ấy cả. Người ta gọi đó là lòng trung thành.
Một số học giả Tây phương cho lòng trung thành ấy là nguyên nhân chính khiến chế độ cộng sản ở Việt Nam, Trung Quốc và Bắc Triều Tiên vẫn còn đứng vững sau khi toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Nga và Đông Âu bị sụp đổ vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990. Người ta cũng cho lòng trung thành ấy đã bén rễ sâu xa trong văn hóa và lịch sử của cả ba nước, chủ yếu thông qua Nho giáo, một học thuyết lâu đời và có ảnh hưởng cực lớn, vốn đề cao sự hòa thuận và đặc biệt, sự trung hiếu đối với các bậc bề trên. Trong văn hóa Nho giáo, sự phản kháng không phải chỉ có màu sắc chính trị mà còn được xem là thuộc phạm trù đạo đức: Nó bị xem như một tội lỗi.
Thật ra, Nho giáo đề cao lòng trung thành nhưng lại không hề chủ trương một thứ ngu trung. Mạnh Tử từng bảo với những bạo chúa như Kiệt Trụ thì nên giết; giết chúng không phải là giết vua mà là giết những tên thất phu. Điều đó có nghĩa là với những bậc thánh hiền trong Nho giáo, có hai loại trung thành khác nhau: có loại trung thành chính đáng và có loại trung thành sai lầm, hay thường gọi là ngu trung.
Trung như Lý Trần Quán đối với Trịnh Khải là ngu trung. Năm 1786, khi Đoan Nam Vương Trịnh Khải bị Nguyễn Huệ đuổi chạy, cuối cùng, bị bắt, phải tự tử. Để tỏ lòng trung, Lý Trần Quán đã sai mua quan tài và sai người đem đi chôn sống. Ông không cần biết Trịnh Khải đã làm gì với vua Lê và đã làm được gì cho đất nước. Ông cũng không cần biết Nguyễn Huệ là ai; và giữa Nguyễn Huệ và Trịnh Khải, ai đang và sẽ đóng góp nhiều cho đất nước hơn. Ông không cần biết. Ông chỉ cần biết Trịnh Khải là chủ của ông. Ông không cứu được Trịnh Khải vậy ông phải chết. Đơn giản chỉ có vậy.
Bây giờ hẳn sẽ không có ai sẵn sàng tuẫn tiết nếu nhà cầm quyền sụp đổ như Lý Trần Quán ngày trước. Nhưng, với những mức độ khác nhau, một thái độ ngu trung như vậy không phải là không có.
Ở thời nào ngu trung cũng có một số đặc điểm giống nhau:
Thứ nhất, người ta trung với cái danh của người lãnh đạo chứ không phải với tư cách và hành động của người ấy. Trong sinh hoạt chính trị ở Tây phương hiện nay, người ta cũng đề cao lòng trung thành, nhưng cội rễ của sự trung thành ấy được xây dựng trên sự đồng thuận về chính sách chứ không phải trên cá nhân hay huyền thoại của tổ chức. Ở Việt Nam, ngược lại, khi nói đến “trung với đảng”, nhất là trong thời điểm hiện nay, người ta lại gạt bỏ các chính sách của đảng mà chỉ tập trung vào quá khứ hào hùng của một thời nào xa lắc, một quá khứ đẫm đầy màu sắc huyền thoại.
Thứ hai, người ta xem biểu hiện chính, thậm chí, duy nhất của sự trung thành là sự vâng phục tuyệt đối. Cấp trên nói đúng: nghe theo, đã đành. Cấp trên nói sai rành rành, vẫn cứ nhắm mắt tuân theo. Cứ xem các diễn văn và các lời lẽ tuyên truyền của chính phủ như Kinh Thánh. Cứ lặp lại như vẹt chứ không có chút hoài nghi. Ở Tây phương, ngược lại, người ta đề cao thứ trung thành kèm theo óc phê phán. Chỉ trung thành với những cái đúng. Hơn nữa, chỉ trung thành khi dám lên tiếng phê phán những cái sai của chính giới lãnh đạo của mình. Chính vì thế, không hiếm người sẵn sàng lên tiếng chỉ trích đảng của họ. Hay chính phủ của họ. Sự trung thành đối với cái đúng và đối với quyền lợi dân tộc được xem là chính đáng và cao cả hơn hẳn sự trung thành đối với một cá nhân hay một tổ chức.
Ở Việt Nam hiện nay, đồng lõa lớn nhất của cái ác và cái độc hại chính là những thứ ngu trung như thế.
Chúng ta tạm thời gạt bỏ câu hỏi thứ nhất. Cái gọi là im lặng của dân chúng bao giờ cũng là một bí ẩn. Im lặng có nhiều ý nghĩa và xuất phát từ nhiều lý do. Có sự im lặng của sự thỏa mãn nhưng cũng có sự im lặng của sự bất bình. Có sự im lặng của cảnh trời trong mây đẹp nhưng cũng có sự im lặng trước bão tố. Không ai biết trước được. Ở các xứ độc tài, nơi không có các cuộc điều tra dư luận lại càng không thể biết được. Năm ngoái, trước khi Hosni Mubarak bị lật đổ và trước khi Muammar Gaddafi bị bắn chết, không ai hiểu được sự im lặng của dân chúng Ai Cập và Libya cả. Cả các cơ quan tình báo lớn nhất của Tây phương cũng không hiểu.
Cái không-thể-hiểu xin tạm thời bỏ qua. Chỉ xin tập trung vào câu hỏi thứ hai: Tại sao vẫn có một số không ít người tiếp tục ủng hộ chính quyền?
Chắc chắn, với một số rất đông, là vì quyền lợi. Trên một blog trong nước, có người kể lại lời nói một số cựu chiến binh và thương binh: Mất chế độ, người ta cũng sẽ mất luôn cả hưu bỗng. Bảo vệ chế độ, do đó, cũng là bảo vệ quyền lợi của chính họ. Đó là cách lập luận của những người đã về hưu. Còn với những người đang tại chức, điều đó lại càng rõ. Phương châm của Công an Việt Nam thể hiện rất rõ điều đó: “Còn Đảng còn mình.” Mà không phải chỉ công an. Ở ngành nào cũng thế. Có đảng tịch là có chức và có quyền. Có chức và có quyền là tự nhiên có tiền. Tiền như mọc ra từ các tấm thẻ đảng. Lại là tiền nhiều nữa. Không làm gì cả cũng có tiền. Tiền do người ta… cúng. Bảo vệ đảng, do đó, trở thành việc bảo vệ kho bạc và kho vàng của chính mình.
Việc bảo vệ chính quyền vì quyền lợi của chính mình thời nào cũng có. Chính phủ càng phi nghĩa và phi nhân, quyền lợi càng lớn; quyền lợi càng lớn, sự bảo vệ càng tích cực. Tất cả những chuyện đó đều dễ hiểu.
Chúng ta chỉ bàn đến số người khác: Họ vẫn muốn bảo vệ chính quyền dù họ không được hưởng quyền lợi gì trực tiếp từ chính quyền ấy cả. Người ta gọi đó là lòng trung thành.
Một số học giả Tây phương cho lòng trung thành ấy là nguyên nhân chính khiến chế độ cộng sản ở Việt Nam, Trung Quốc và Bắc Triều Tiên vẫn còn đứng vững sau khi toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Nga và Đông Âu bị sụp đổ vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990. Người ta cũng cho lòng trung thành ấy đã bén rễ sâu xa trong văn hóa và lịch sử của cả ba nước, chủ yếu thông qua Nho giáo, một học thuyết lâu đời và có ảnh hưởng cực lớn, vốn đề cao sự hòa thuận và đặc biệt, sự trung hiếu đối với các bậc bề trên. Trong văn hóa Nho giáo, sự phản kháng không phải chỉ có màu sắc chính trị mà còn được xem là thuộc phạm trù đạo đức: Nó bị xem như một tội lỗi.
Thật ra, Nho giáo đề cao lòng trung thành nhưng lại không hề chủ trương một thứ ngu trung. Mạnh Tử từng bảo với những bạo chúa như Kiệt Trụ thì nên giết; giết chúng không phải là giết vua mà là giết những tên thất phu. Điều đó có nghĩa là với những bậc thánh hiền trong Nho giáo, có hai loại trung thành khác nhau: có loại trung thành chính đáng và có loại trung thành sai lầm, hay thường gọi là ngu trung.
Trung như Lý Trần Quán đối với Trịnh Khải là ngu trung. Năm 1786, khi Đoan Nam Vương Trịnh Khải bị Nguyễn Huệ đuổi chạy, cuối cùng, bị bắt, phải tự tử. Để tỏ lòng trung, Lý Trần Quán đã sai mua quan tài và sai người đem đi chôn sống. Ông không cần biết Trịnh Khải đã làm gì với vua Lê và đã làm được gì cho đất nước. Ông cũng không cần biết Nguyễn Huệ là ai; và giữa Nguyễn Huệ và Trịnh Khải, ai đang và sẽ đóng góp nhiều cho đất nước hơn. Ông không cần biết. Ông chỉ cần biết Trịnh Khải là chủ của ông. Ông không cứu được Trịnh Khải vậy ông phải chết. Đơn giản chỉ có vậy.
Bây giờ hẳn sẽ không có ai sẵn sàng tuẫn tiết nếu nhà cầm quyền sụp đổ như Lý Trần Quán ngày trước. Nhưng, với những mức độ khác nhau, một thái độ ngu trung như vậy không phải là không có.
Ở thời nào ngu trung cũng có một số đặc điểm giống nhau:
Thứ nhất, người ta trung với cái danh của người lãnh đạo chứ không phải với tư cách và hành động của người ấy. Trong sinh hoạt chính trị ở Tây phương hiện nay, người ta cũng đề cao lòng trung thành, nhưng cội rễ của sự trung thành ấy được xây dựng trên sự đồng thuận về chính sách chứ không phải trên cá nhân hay huyền thoại của tổ chức. Ở Việt Nam, ngược lại, khi nói đến “trung với đảng”, nhất là trong thời điểm hiện nay, người ta lại gạt bỏ các chính sách của đảng mà chỉ tập trung vào quá khứ hào hùng của một thời nào xa lắc, một quá khứ đẫm đầy màu sắc huyền thoại.
Thứ hai, người ta xem biểu hiện chính, thậm chí, duy nhất của sự trung thành là sự vâng phục tuyệt đối. Cấp trên nói đúng: nghe theo, đã đành. Cấp trên nói sai rành rành, vẫn cứ nhắm mắt tuân theo. Cứ xem các diễn văn và các lời lẽ tuyên truyền của chính phủ như Kinh Thánh. Cứ lặp lại như vẹt chứ không có chút hoài nghi. Ở Tây phương, ngược lại, người ta đề cao thứ trung thành kèm theo óc phê phán. Chỉ trung thành với những cái đúng. Hơn nữa, chỉ trung thành khi dám lên tiếng phê phán những cái sai của chính giới lãnh đạo của mình. Chính vì thế, không hiếm người sẵn sàng lên tiếng chỉ trích đảng của họ. Hay chính phủ của họ. Sự trung thành đối với cái đúng và đối với quyền lợi dân tộc được xem là chính đáng và cao cả hơn hẳn sự trung thành đối với một cá nhân hay một tổ chức.
Ở Việt Nam hiện nay, đồng lõa lớn nhất của cái ác và cái độc hại chính là những thứ ngu trung như thế.
http://www.voatiengviet.com/content/ngu-trung/1490640.html
=================
SỰ “SUY THOÁI” TRONG LỊCH SỬ
VÀ HAI CHỮ “NGU TRUNG”
Hạ Đình Nguyên
14- 8-2012
Nhân dân chỉ có một câu trả lời duy nhất : Chiến ! Nhân dân Việt Nam đã trường chinh 150 năm chưa nghỉ, đã từng nằm gai nếm mật, đã có nhiều cách đánh. Nhưng trước hết, không mắt mưu chúng về hướng “diễn biến hòa bình”, hướng đó chính là từ phương Bắc, không thể mơ hồ. Sự mơ hồ lúc nầy là tạo thời cơ cho giặc.
Lịch sử sinh mệnh VN qua mỗi triều đại đều có những thời khắc gay cấn. Mỗi lần gay cấn, dân tộc lại bị phân thân thành những xu thế khác nhau để đấu tranh cho sự sinh tồn, hao tốn nhiều sinh lực, thậm chí là máu xương để tìm lối thoát, nếu lệch đường, thì lịch sử lại bước vào một trang đen tối.
Lịch sử sinh mệnh VN qua mỗi triều đại đều có những thời khắc gay cấn. Mỗi lần gay cấn, dân tộc lại bị phân thân thành những xu thế khác nhau để đấu tranh cho sự sinh tồn, hao tốn nhiều sinh lực, thậm chí là máu xương để tìm lối thoát, nếu lệch đường, thì lịch sử lại bước vào một trang đen tối.
Qua sáu triều đại lớn Đinh-Lê-Lý-Trần-Lê-Nguyễn, mổi triều đại đều kết thúc bằng sự suy thoái về “ Tư tưởng-Chính trị-Đạo đức-Lối sống” (tt-ct-đđ-ls), sau đó là rơi vào tình trạng rối ren, đấu tranh nội bộ, hoặc chuyển sang giai đoạn đối đầu chiến tranh xâm lược. Năm triều đại đầu chống giặc từ phương Bắc, trong trường đoạn lịch sử thịnh và suy nối tiếp nhau, kéo dài cả 1.000 năm. (968-1874).Triều đại sau là Nhà Nguyễn thì chống giặc từ phương Tây suốt 71 năm, từ 1874 đến 1945. Từ 1945, dưới triều đại Hồ Chí Minh và Đảng Lao Động VN thì chống Pháp, Tàu(Tưởng Giới Thạch) và Mỹ. Gối theo theo những thập niên cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, lại đan lồng theo cách song hành một cuộc chiến tranh khác, vừa công khai, vừa trong bóng tối chập chờn, lúc nóng lúc lạnh, khi bạn khi thù của chính phương Bắc, chúng là kẻ thù dai dẳng nhất, suốt lịch sử Việt Nam !
Lịch sử cho thấy rõ, tình trạng suy thoái nội bộ là điều
kiện chủ quan, tạo thời cơ cho bọn bành trướng Phương Bắc thực hiện tham vọng
xâm lăng. Về phía ta, suy thoái là con đường có thể dẫn tới mất nước. Mà nguyên
nhân suy thoái không ở đâu khác, nó nằm trên vai của tập đoàn lãnh
đạo Quốc gia của triều đại đương thời.
I—SỰ
SUY THOÁI TRONG LỊCH SỬ
Một quốc gia suy thoái, không chỉ là suy thoái theo nghĩa
thoáng qua một cách bình thường. Một cơ thể bị suy thoái là kéo theo cả lục phủ
ngủ tạng trong quy trình Sinh-Thành-Hoại-Diệt. Sự suy thoái của một triều đại,
thông thường là không gượng nổi, kéo theo sự sụp đổ triều đại đó, bởi một lực
lượng mới, hoặc bởi một thế lực ngoại xâm, mà Việt Nam thì luôn nằm cạnh nanh
vuốt của loài hổ báo. Chịu khó lướt qua lịch sử để thấy tầm vóc hiểm
nguy của hai từ “suy thoái”.
1-Nhà Đinh (968-980) . Đinh Bộ Lĩnh đấu tranh với
12 sứ quân, rồi chiến thắng và thống nhất dân tộc, lập nên Nhà Đinh, ( Đinh
Tiên Hoàng), hiệu nước là Đại Cồ Việt. Việt Nam khai quốc chính danh từ đây. Đinh
Tiên Hoàng mất sớm, vua con lên ngôi mới 6 tuổi, Thái hậu Dương Vân Nga nhiếp
chính, triều đại đi vào suy thoái. tt-ct-đđ-lsnhanh chóng. Giặc
Tống từ phương Bắc (Tàu) thấy thế tràn sang xâm lược. Vì coi sự tồn vong
của dân tộc là trên hết, Thái Hậu và triều đình quyết định truyền ngôi vua cho
Thập Đạo Tướng Quân Lê Hoàn, để cầm quân đánh giặc.. Nhà Đinh chấm dứt sau 12
năm trị vì.
2-Nhà Tiền Lê-(980-1009). Lê Hoàng lên ngôi, cầm quân đánh
tan giặc Tống, giữ được bờ cỏi. Nhà Tống nể nang, tôn trọng, quan hệ hòa
bình, truyền đến đời thứ 3, là Lê Ngọa Triều thì bệ rạc, suy thoái tt-ct-đđ-ls và
chấm dứt năm 1009, trị vì 29 năm.
3-Nhà Lý-(1009-1225). Lý Công Uẩn, quan đầu triều nhà
Lê, có trí tuệ uyên bác, đứng ra lật đổ thối nát, chấn hưng quốc gia, lập nên
nhà Lý, kéo dài 216 năm, đất nước hưng thịnh, đặt lại tên nước là Đại Việt, hai
lần đánh thắng giặc Tống, giữ vững nền độc lập.(1) Đến đời vua Lý Anh Tông bắt
đầu suy, kéo dài đến đời Lý Cao Tông (1210) thì suy thoái hoàn toàn về...tt-ct-đđ-ls. Sách
chép : “Chơi bời vô độ, chính sự hình pháp không rõ ràng, giặc cướp nổi
như ong, đói kém liền năm, cơ nghiệp nhà Lý từ ấy suy”. “Lòng dân
trái lìa, đó là triệu bại vong”. Từ 1210 đến 1225 triều chính nằm trong tay đại
thần Trần Thủ Độ, nhà Lý chỉ còn cô con gái nhỏ Lý Chiêu Hoàng đứng danh nghĩa.
Triều đại nhà Lý cũng đến đây là chấm dứt.
4-Nhà Trần.(1225-1400). Trần Thủ Độ, quan đầu triều, là một
người mưu lược, độc ác, thanh toán các thế lực, giành ngôi và đứng ra chấn hưng
đất nước. Để danh chính ngôn thuận, đưa cháu là Trần Cảnh, chồng tảo hôn với Lý
Chiêu Hoàng, lên làm vua, lập nên Nhà Trần. Là một triều đại hùng mạnh kéo dài
175 năm, 3 lần lẫy lừng chống quân Nguyên Mông, để lại một trang sử vẻ
vang của dân tộc Việt.(2) Nhưng đến đời vua cha của Trần Dụ Tông thì bắt đầu ăn
chơi và triều đại suy thoái, đến khi Dụ Tông lên ngôi (1357) thì suy thoái càng
thêm trầm trọng về… tt-ct-đđ-ls. Sách nói : “ham mê tửu sắc, bỏ bê
triều chính, gian thần lộng hành, sưu cao thuế nặng”. Chí sĩ Chu Văn An dâng
“Thất Điểu Trần” bị bỏ ngoài tai. (Vua trước lấy gái làng chơi, đã sẳn có
bầu, đem về sinh ra Dụ Tông nên ăn chơi là cũng phải !). Suy thoái kéo
dài, việc triều chính nằm trong tay đại thần Hồ Quý Ly. Đến 1400, nhà Trần chấm
dứt vì Hồ Quý Ly cướp ngôi, cải tổ triều chính, nhiều sáng kiến chấn
hưng, nhưng không kịp. 1406, nhà Minh tuy không hưng thịnh, nhưng thấy thế, liền
kéo quân sang xâm lược, do Mộc Thạnh, Trương Phụ cầm đầu. Quý Ly chống không
nổi, vì lòng dân không ủng hộ, bị giặc bắt cả vua cả tướng đem về Tàu. Giặc
Minh biến Đại Việt thành Quận Giao Chỉ, (tổng cộng 21 năm), chúng thực hiện các
biện pháp cai trị tàn ác, tìm mọi cách đồng hóa để xóa bỏ VN, triệt tiêu văn
hóa, phong tục tập quán, xóa chữ viết, có cả việc đục văn bia( như Bắc Kinh đã
sai làm vừa qua ở các chiến địa biên giới phía Bắc, sau trận xâm lăng thất
bại năm 1979). Nhưng tinh thần Việt không khuất phục, ngay tử 1407 Trần Ngỗi
nỗi lên cầm đầu cuộc kháng chiến, được 5 năm (1412) thì bị dập tắt, tiếp đến là
cuộc chiến đấu của Lê Lợi.
5-Nhà Hậu Lê. (1418) Lê Lợi là bậc hào kiệt, cùng Nguyễn
Trãi là bậc chí sĩ đã cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống quân Minh, 10 năm kháng
chiến, từ 1418 đến 1427, quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cỏi, khôi phục giang
sơn, lên ngôi Hoàng Đế, chấn hưng đất nước, kéo dài thời hưng thịnh gần một
trăm năm, đến đời vua thứ 5, Lê Uy Mục (1527) thì …suy thoái tt-ct-đđ-ls, sinh
nội loạn. Mạc Đăng Dung dẹp nội loạn, chiếm ngôi nhà Lê, chấn hưng
nhiều mặt, thực hiện nhiều chính sách cởi mở, có được một thời ngắn yên ổn,
nhưng dưới sức ép mạnh mẽ của nhà Minh, xét thế cuộc còn chênh lệch
không chọi nổi, lại vì chính nghĩa chưa tỏ rõ, lòng dânchưa thuận theo, nên Mạc
Đăng Dung tự trói mình, lên cửa ải xin hàng nhà Minh,nhận tấn phong của Minh
Triều chức An Nam Đô Thống, để mong giữ yên bờ cỏi. Như thế, Việt Nam không còn
là một quốc gia độc lập. Hành động đối ngoại nầy của Mạc Đăng Dung còn để lại
sự bàn cãi hai chiều của lịch sử.
6-Giai đoạnTrịnh -Nguyễn phân tranh.
Chúa Trịnh. Sự suy thoái cuối triều Lê, dẫn đến thời Mạc trở
thành lệ thuộc nhà Minh trong quan hệ bang giao, nhà Lê còn tồn tại một thế lực
tiếp tục chống Mạc, do võ tướng Nguyễn Kim phò tá. Kim chết, rể là Trịnh
Kiểm lên thay, dần hồi tiếm quyền, một mặt mưu ám hại con cái Nguyễn Kim, một
mặt lợi dụng danh nghĩa phò Lê, diệt Mạc.Trịnh diệt được Mạc, lập nên Phủ Chúa,
điều khiển quốc gia dưới danh ảo Vua Lê.
Chúa Nguyễn. Nguyễn Hoàng, con Nguyễn Kim, sợ anh rễ ám hại,
lập kế xin trấn giữ phương Nam, dần hồi thoát được sự kèm chế của Trịnh, lập
nên chính quyền phương Nam. Từ đó đất nước chia hai miền Nam, Bắc. Chúa Nguyễn
trong Nam, chúa Trịnh phía bắc. Phía Nam có công mở mang bờ cỏi. Phía Bắc, dù
vẫn suy thoái nhưng giữ được biên cương, chưa bị xâm lăng, vì lúc nầy Nhà Minh
(Tàu) đang suy thoái, bị chìm đắm trong nội chiến, bởi bộ tộc Mãn nổi lên chống
phá, nên sức chưa đủ mạnh để dòm ngó phương Nam.
Hai miền Đại Việt phân tranh. Năm 1627 hai bên lấy
sông Gianh làm giới tuyến, kéo dài hơn 200 năm. Nhân dân Việt Nam với tấm lòng
bao dung và coi Tổ Quốc là trên hết, không tán thành sự hận thù chia rẽ bởi
chính quyền Nam hay Bắc, với một tâm thức tinh tế, gọi chính quyền phía Nam là Đàng
Trong, gọi chính quyền phía Bắc là Đàng Ngoài, thể hiện ý chí duy trì một
Quốc gia duy nhất.. Cuộc giằng co đôi bên chẳng đem lại sự hưng thịnh nào cho
đất nước, con dân trong tình cảnh bèo dạt mây trôi. Năm 1771, ở vùng núi non
miền Trung hoang vu, thuộc tỉnh Bình Định, xuất hiện một lực lượng mới, do anh
em hào kiệt Nguyễn Huệ cầm đầu, vung gươm mấy trận, dẹp sạch Đàng Trong lẫn
Đàng Ngoài, cả vua Lê chúa Trịnh đều cho về vườn, lên ngôi Hoàng Đế, trực tiếp
cầm quân chống giặc Mãn Thanh (Tàu), lúc nầy đã thanh toán xong nhà Minh, lập
nên nhà Thanh, thế đang mạnh, hùng dũng tràn quân sang xâm lược VN. Nguyễn Huệ
đánh quân Thanh một trận tan tành, gò Đống Đa còn ghi dấu tích.
Trong Nam, quân Xiêm La kéo sang ăn có, chỉ một trận, nhận chìm cả đoàn
quân viễn chinh ở sông Rạch Gầm. Giang sơn bắt đầu thu về một mối, khởi sự cuộc
chấn hưng. Nhưng vận nước còn xui, người anh hùng bỗng dưng đột tử, mọi việc
trở nên dở dang.
7-Nhà Nguyễn. Hậu duệ của chúa Nguyễn (Đàng Trong)- Nguyễn
Ánh- chiếm lại giang sơn, thống nhất nước nhà từ Nam đến Bắc, dưng lên Nhà
Nguyễn, kéo dài thịnh trị mấy trăm năm. Đến đời vua Tư Đức, thời đại thế giới
đã chuyển mình, phương Tây phát triển khoa học kỹ thuật,, tạo nên một nền văn
minh mới. Trong khi đó, Việt Nam cũng như Tàu và cả phương Đông đang chìm trong
lạc hậu với hệ tư tưởng phong kiến cũ kỷ, bị các nước phương Tây xâm chiếm
và đô hô, Pháp chiếm Việt Nam, có thể lấy mốc lịch sử từ năm ký Hiệp Ước 1874,
bắt đầu nhận chịu sự bảo hộ của Pháp.. Đại thần Phan Thanh Giảng tuẩn tiết khi
mất 3 tỉnh miền Đông Nam bộ. Từng bước, VN rơi vào cảnh mất nước và lầm than,
nhưng lực lượng kháng chiến trong nhân dân không bao giờ ngừng. Các đời
vua sau cùng của Nhà Nguyễn trong chế độ bảo hộ, liên tục bị thực dân Pháp bức
hại trong bóng tối, bị bắt, bị giết, bị lưu đày. Đời vua bù nhìn cuối cùng là
Bảo Đại lưu vong sang Pháp, đến cuối đời chết ở đấy. Nhà Nguyễn đã hoàn toàn
chấm dứt từ 1945. (1874-1945=81 năm lệ thuộc Pháp). Hẳn nhiên trong bối
cảnh trượt dài trong suy thoái không gượng nổi về ..tt-ct-đđ-ls của các
thế hệ cầm quyền phong kiến nhà Nguyễn. Sự suy thoái lần nầy cực kỳ trầm
trọng trong so sánh với sự biến chuyển mới của thời đại. Nhà Nguyễn có
nhìn mà không thấy được thời đại mới, bỏ qua một cơ hội chuyển mình của dân tộc.
Xét qua các triều đại, mỗi lần suy thoái dẫn đến kết thúc
một triều đại đều để lại nhiều bài học đáng giá, bộc lộ khả năng, đức độ của
tập đoàn cầm quyền về phương diện nội trị và đối ngoại..Và có thể kết luận, bộ
máy Nhà Nước có thể mất, thế lực cầm quyền có thể đầu hàng, ngu
trung có thể không nhìn thấy, nhưng dân tộc không bao giờ mất, nhân
dân không bao giờ đầu hàng, bậc trung quân ái quốc thì luôn nhìn thấy.
8-Triều Đại Hồ Chí Minh và Đảng Lao Động Việt Nam. Từ
đây, cuộc kháng chiến trong nhân dân vẫn tiếp tục, dưới sự lãnh đạo của Đảng
LĐVN, với chủ thuyết XHCN, 1945-1975=30 năm chiến đấu (chống Pháp 9 năm,
chống Mỹ 21 năm) với cường độ khốc liệt, một giai đoạn lịch sử vô cùng bi tráng
cho dân tộc, bởi sức ép trong bối cảnh hệ tư tưởng của thời đại chia thế
giới chia thành hai cực. Hiểm độc hơn nữa, lồng vào tình thế đó, là cuộc
xâm lăng khi âm thầm, khi trắng trợn của TQ, dưới vỏ bọc cùng phe,
cùng hệ tư tưởng XHCN.
Sắp kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh với Mỹ, năm 1974, chúng chớp thời cơ, chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa.. Năm 1975, kết thúc cuộc chiến với Mỹ, liền sau đó, 1977, chúng bắt đầu cho quân Khơme Đỏ đánh phá biên giới Tây Nam, để tiến công qua, bị quân ta đập tan. Năm1979, chúng tiến hành công khai cuộc xâm lược, cho đại quân ào vào biên giới phía Bắc. TBT Lê Duẫn tiếp tục lãnh đạo quân dân chống xâm lăng, làm chúng thất bại nặng nề, buộc phải rút quân về nước, mộng bành trướng bị chận đứng. Nhưng sau đó,cuộc chiến đấu vẫn âm thầm tiếp tục ở quy mô nhỏ dọc biên giới. Năm 1988, chọn lúc bất ngờ, chúng tiến chiếm thêm 7 đảo đá ở Trường Sa. Từ 1975-2012 là 37 năm chưa lúc nào yên với phương bắc. Chúng không bao giờ muốn Việt Nam độc lập, luôn muốn kìm kẹp Việt Nam trong thế suy yếu. TBT Lê Duẫn, trước khi mất, căm giận không nguôi, khẳng định : “Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam”.
Sắp kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh với Mỹ, năm 1974, chúng chớp thời cơ, chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa.. Năm 1975, kết thúc cuộc chiến với Mỹ, liền sau đó, 1977, chúng bắt đầu cho quân Khơme Đỏ đánh phá biên giới Tây Nam, để tiến công qua, bị quân ta đập tan. Năm1979, chúng tiến hành công khai cuộc xâm lược, cho đại quân ào vào biên giới phía Bắc. TBT Lê Duẫn tiếp tục lãnh đạo quân dân chống xâm lăng, làm chúng thất bại nặng nề, buộc phải rút quân về nước, mộng bành trướng bị chận đứng. Nhưng sau đó,cuộc chiến đấu vẫn âm thầm tiếp tục ở quy mô nhỏ dọc biên giới. Năm 1988, chọn lúc bất ngờ, chúng tiến chiếm thêm 7 đảo đá ở Trường Sa. Từ 1975-2012 là 37 năm chưa lúc nào yên với phương bắc. Chúng không bao giờ muốn Việt Nam độc lập, luôn muốn kìm kẹp Việt Nam trong thế suy yếu. TBT Lê Duẫn, trước khi mất, căm giận không nguôi, khẳng định : “Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam”.
Đến tháng 3-1990 thì Lãnh đạo Đảng Việt Nam sang Tàu xin hòa
hoãn, tái ban giao với biên bản ký kết 16 chữ vàng ở Hội nghị Thành Đô (TQ). Quá
khứ đau thương còn nóng hổi được gác lại một cách tế nhị, và được đưa vào vùng
“nhạy cảm”, không được nhắc tới. Từ đó sự suy thoái ngày càng diễn tiến phức tạp.
Dưới tấm màn xảo trá 16 chữ vàng, bọn chúng âm thầm
tiến hành sách lược xâm lăng theo kế sách “sức mạnh mềm” với 5 bộc lộ mà
người dân bình thường cũng thấy rõ :
1* Lấy chất kết dính là CNXH để lung lạc lập
trường của Lãnh đạo VN.
2* Lấy sự tồn vong của “hai” Đảng làm bản lề để
gây ảnh hưởng chính trị vào chính trường VN.
3* Trói buộc vừa phá hoại nền kinh tế VN với
nhiều mưu độc dưới dạng hợp tác thân thiện, hữu nghị.
4* Kèm chế quan hệ Việt Nam-Mỹ, xúi dục VN đối
đầu với Mỹ bằng phương châm “diễn biến hòa bình” hòng kéo VN vào thế lệ
thuộc chúng, đem khẩu hiệu nầy truyền bá, hòng làm lạc hướng nhận thức của cán
bộ và nhân dân.
5* Tham vọng nuốt Biển Đông. Thập niên đầu thế kỷ
21, kinh tế TQ phát triển nhanh, quân sự được hiện đại hóa, chúng cho rằng thế
và lực đủ mạnh, sự suy thoái của VN - bàn đạp quan trọng để tiến vào Đông Nam Á
–đã chín mùi trong thế kẹp toàn diện của 16 chữ vàng,chúng trắng trợn thách
thức thế giới, tiến hành chiến dịch thôn tính toàn Biển Đông, tuyên bố bừa
rằng Hoàng Sa, Trường Sa là của chúng, công khai đe nẹt VN phải đi theo con
đường “đại cuộc siêu cường” của chiến lược bành trướng, nếu không, thì bị trả
thù !
Nhân dân Việt Nam đã đi suốt con đường đấu tranh không ngừng
nghỉ 150 năm (81+30+37), nói riêng dưới triều đại Đảng CS và Chủ
Nghĩa Xã Hội là 67 năm, để giành lại giang sơn và giữ giang sơn một cách
bi tráng với tất cả phức tạp của tình hình thế giới, với tốc độ dồn dập những
khoảnh khắc lóe sáng rồi chập tối của lịch sử cận đại quay cuồng mà dân tộc
Việt nam phải đối phó, với những kẻ thù hùng mạnh gấp nhiều lần liên tiếp thay
nhau, bạn thù tráo trở, trào lưu xoay vần : xong Pháp,Tàu, Mỹ, thì lập tức lại
là Trung Quốc.
Trong tình hình mới hiện nay, Hệ tư tưởng đối lập mang
tính toàn cầu chia đôi thế giới của thời chiến tranh lạnh, ngày nay không còn
nữa, thay vào đó là sự khác biệt về hai cơ chế quản lý và điều hành xã hôi, một
mang tên là cơ chế “dân chủ”,và một, mang tên là cơ chế “dân chủ gấp triệu lần”(lời
bà PCT Nước, GS-TS Nguyễn Thị Doan)! Đó là bối cảnh tư tưởng cực kỳ hủ bại, lạc
nhịp của một bên..Tại thời điểm hôm nay, và cả thế kỷ 21, tai họa lớn nhất
đối với nền hòa bình thế giới là chủ nghĩa bành trướng hiếu chiến Bắc Kinh,
đồng thời là kẻ thù trực diện, nham hiểm nhất đối với Việt Nam. Chúng bảo
Việt Nam: “Muốn ổn định phải đổi đất”. (báo Hoàn Cầu). Ý chúng dọa nạt ai, và
điều gì ? Đổi đất, tức là cắt giang sơn và để yên các Đảo và Biển Đông cho
chúng, và ổn định là ổn định vai trò cầm quyền độc tôn của Đảng CSVN
nếu theo chúng ?
Tuy nhiên, giang sơn không thể cắt bớt. Đất liền, biển, đảo
đã được giữ gìn qua bao triều đại. Lại càng không có sự “ổn định” nào có giá
trị hơn Độc Lập, Tự Do, không có sự “tồn tại” có giá trị của bất cứ đảng phái
nào, khi không giữ được toàn vẹn lãnh thổ.
Trong 20 năm qua, từ hội nghị Thành Đô đến nay, ĐCS VN đã
suy thoái và đang tiếp tục suy thoái, như Nghị Quyết 5 đã nêu: “ Sự suy thoái
về Tư Tưởng, Chính Trị, Đạo Đức, Lối Sống” lên tới đỉnh điểm, chạm với “sự tồn
vong” của Đảng. Nhưng đáng nói hơn, và đúng hơn, chính là sự tồn vong
của đất nước. Chúng ta biết rằng, sự suy thoáikhông bắt đầu
trong một đêm và không thể chấm dứt trong một ngày. Nó có nguyên nhân cốt lõi
và kéo dài không chỉ 20 năm, mà có thể đến mấy đời vua, hay cả nửa thế kỷ, như
lịch sử đã cho thấy. Sự suy thoái là quá trình tự hủy hoại nhiều mặt. Chúng ta
biết lối sống là biểu hiện của nền tảng đạo đức và giáo dục. Suy
đồi đạo đức là biều hiện của một nền cai trị không tốt. Cái gốc vấn đề
chính là tư tưởng-chính trị,nó luôn ở vai trò nguyên nhân chủ đạo, mà tư
tưởng là cốt lõi, vì tư tưởng có nhìn ra được trào lưu của thời
đại hay không ? thấy rõ loại nào là đề án phát triển dân tộc nhắm
đến văn minh, nhân bản, dân chủ, tiến bộ; và loại nào là đề án kìm hãm dân
tộc trong độc tài, dã man, tụt hậu; để từ đó xác định hướng đi và chỉ rõ
kẻ thù ? Nhân dân Việt Nam thấy rõ ai đang chỉa súng, lưỡi lê, giáo
mác vào ta , ai đang trừng mắt và sĩ nhục dân ta mỗi ngày ở đất liền, ở biển
Đông ? Suy thoái lần nầy phải chăng có gắn liền với đặc điểm kiệt quệ về
sức sống, thiếu vắng niềm tự tin của dân tộc, hay kiệt quệ về khả
năng tư duy của cả dân tộc ? và đặc biệt của lãnh đạo đương thời ?
Lướt qua bối cảnh suy thoái gắn liền với ngoại xâm của 7
triều đại và triều đại hôm nay, chúng ta thấy rõ sự suy thoái hay hưng thịnh
của một chế độ, là vai trò của kẻ làm quan của triều đại đó, đặc biệt là các
Quan Đại Thần, về chính sách nội trị đối với nhân dân, và khả
năngtư duy về thời đại, tư duy về học thuyết .Trong bối cảnh đó, ta nghĩ về tác
hại của tư tưởng Ngu Trung .(còn tiếp)
(1) Năm 1075 quân Tống chuẩn bị đem quân thủy bộ sang đánh.
Lý Thường Kiệt chủ động đưa quân sang Tống đánh phá châu Khâm, châu Liêm, vây
châu Ung, chận đánh tan quân tiếp viện tại Côn Lôn, (Nam Ninh, khu tự trị
Choang Quảng Tây), chém tướng tại trận, cả chiến dịch giết trên 100.000 người,
rồi kéo quân về. Năm 1076, để trả thù, Tống đem 10 vạn tinh binh, 20 vạn
dân phu, 1 vạn ngựa, hợp cùng quân Chân Lạp, hai đường thủy bộ cùng tấn công.
Quân Việt đánh tan đoàn quân thủy, ghìm chân đại quân bộ tại sông Như Nguyệt,
đánh tiêu hao. Cuối cùng ta cho cầu hòa, ta chiếm giữ luôn đất Quảng Nguyên (
Lạng Sơn- Cao Bằng).
(2) { Lần 1: Quân Mông hùng mạnh, đánh đâu thắng đó, thế
mạnh như chẻ tre, cả 40 nước trải dài từ bờ Thái Bình Dương đến Trung Đông,
Đông Âu đều nằm rạp dưới vó ngựa của quân Mông. Năm 1258 chúng kéo sang VN,
quân Trần dùng kế lui binh, bỏ kinh thành và mai phục. Chỉ một trận phản công,
tập kích trong 15 ngày, quân Mông tan vỡ, hao binh tổn tướng kéo tàn quan chạy
về nước. Lần 2,năm 1285, thái tử Thoát Hoan cầm 50 vạn binh chia 2 cánh quân bộ
tiến qua biên giới Đông Bắc và Tây Bắc, một cánh thủy binh do Toa Đô từ Chân
Lạp kéo lên. Quân Trần ứng chiến các mặt. Trần quốc Tuấn và Trần Nhật Duật đón
đánh 2 cánh quân bộ do Thoát Hoan cầm đầu.Trận nầy tướng Tàu làToa Đô, Lý Hằng
bị bắn chết, Chủ tướng Thoát Hoan phải trốn trong ống đồng để tránh tên cho
lính khiêng chạy. Lần 3, lại là Thoát Hoan tổng chỉ huy, ba cánh đã hội quân
được ở Vạn Kiếp…. Nhưng đoàn tàu lương bị Trần Khánh Dư nhận chìm toàn bộ trên
con đường thủy đến nổi các chủ tướng không hay, Ô Mã Nhi bị ta chận bắt 300
chiến thuyền, Thoát Hoan đang nằm ở Tổng hành dinh nghe lửa cháy rực trời, lên
ngựa không kịp thắng yên cương, chạy theo đường Lạng Sơn, liên tục bị chận
đánh, cho đến năm sau mới về qua được biên giới. Ô Mã Nhi rút chạy theo sông
Bạch Đằng, bị bắt sống cùng tướng Phàn Tiếp}
II-
“NGU TRUNG”
“Ngu trung” có vai trò gì trong mỗi bước suy thoái ?
Như đã thấy qua lịch sử, khi quốc gia suy thoái và bị ngoại
xâm, hàng ngũ quan lại, là những người lãnh đạo đất nước, đều có dao động và
biến động về lập trường tư tưởng, tựu trung theo hai xu thế : chiến hay hòa ?
là chống giặc hay xuôi tay theo giặc ?. Trong suy thoái thì xu thế nào cũng có
nhiều khó khăn và nhiều biện luận, làm phát sinh thêm các hệ quả khó lường, nó
góp phần làm suy yếu nội lực của quốc gia, về sự lựa chọn, quật cường, hay hòa
hoản, con đường nào để không bị nhận chìm trong lệ thuộc. Có một điều
chắc chắn nhất là kẻ thù bao giờ cũng muốn tác động và ủng hộ phe “hòa” trong
khi đó họ không ngừng “chiến” với ta. Thử hình dung, kẻ kia ôm ta, trong
tư thế nhe răng với nụ cười đểu trên môi, mà mũi dao thì dí sát vào bụng ta!
Thật đáng kinh tởm và hãi hùng ! Lịch sử cũng cho thấy, khi ta không
chịu quỳ xuống mà đứng thẳng lên, thì tầm nhìn không còn ngang rốn của đối
phương. Đứng hay quỳ là do tư tưởng trước hết.
Trong sự rối ren của quốc gia, làm bộc lộ rõ các loại quan
sau đây:
- Nịnh Thần, là loại quan không có lòng yêu nước, thiếu
nhân cách, chỉ một lòng lo nịnh nọt kẻ bề trên, lợi dụng tình hình rối ren để
tìm kiếm vật chất càng nhiều càng tốt cho thỏa lòng tham. Quan nầy xuất hiện ở
nhiều cấp lớn nhỏ. Họ có thể nối giáo cho giặc để đoạt lợi lộc, hoặc vô tư với
cái nội tâm không gắn gì với trách nhiệm họ đang nắm giữ. Nịnh thần không
khác gì loại quan tham. Họ xuất thân từ cách mà nhà nước tuyển chọn họ vào
hàng ngũ, theo cái cách không công bằng của một nhà nước kém tư cách ( thân
thế, đút lót, mua bán chức, không căn cứ trên nền tảng văn hóa, như thi cử và
tuyển chọn minh bạch…). Nhà nước càng thiếu tư cách, thì loại ngu thần nầy
càng nhiều. Loại nầy càng nhiều, thì Nhà Nước càng thiếu năng lực và bệ rạc,
lại đổ rằng nguồn nhân lực yếu kém, như con vịt tự than cái chân mình sao quá
ngắn !. ..- Gian Thần, là loại nịnh thần, nhưng giảo hoạt hơn, có
nhiều tham vọng hơn về quyền lực, mánh khóe, thủ đoạn, coi khinh dân chúng, đẩy
dân chúng về phía đối lập, trấn áp đối lập để lập công…họ có thể bán lợi ích
của dân tộc, có thể liên kết với ngoại xâm, sẵn sàng làm quan bù nhìn để cai
trị nhân dân theo sự điều khiển của kẻ thù, để hưởng được nhiều bổng lộc. Dĩ
nhiên hai loại quan nầy, nịnh thần và gian thần, đều nguy hiểm cho quốc gia,
làm cho quốc gia suy thoái theo tốc độ nhanh hơn, vì không thể có nổi một chính
quyền văn minh, lại gây bất bình trong nhân dân, làm suy giảm sức đề kháng của
dân tộc. Nịnh thần và gian thần có tâm lý sợ dân, là mặt trái của sự đàn áp
dân. Loại nầy càng nhiều thì con đường dẫn đến thất bại và nô lệ càng nhanh hơn,
Tuy nhiên, trãi qua lịch sử cam go với nhiều minh chứng, cho
phép ta lạc quan nghĩ rằng, hai loại quan trên thời nào cũng có, nhưng vẫn
là số ít. Mặt khác, những người trung kiên và tai mắt của nhân dân, sẽ sớm phát
hiện để loại trừ.
Vì thế, Việt Nam vẫn trường tồn.
- Trung thần. Đây mới là chủ đề đáng nói, vì là nơi đặt
niềm tin của nhân dân. Trung thần chính là rường cột của quốc gia. Trung thần
là những kẻ làm quan có phẩm chất tốt, hết lòng với vua, với triều đình ( thời
Phong Kiến), và thời đại ngày nay, là hết lòng với lý tưởng về quốc gia dân
tộc. Tuy nhiên qua mỗi nút thắt của lịch sử, là một chu kỳ của hưng thịnh và
suy vong, vấn đề mới được đặt ra trong bối cảnh mới, nhất là thời đại ngày nay,
không gian của một quốc gia bị tác động toàn cầu hóa, vận tốc thời gian dường
như chạy nhanh hơn, cách tồn tại của nhân loại thay đổi nhiều mặt, tạo nên áp
lực tư duy về lý tưởng của các Trung Thần, có chuyển hóa cho tương thích với
thời đại hay một long bám giữ cái đã cũ, chung quy tạo thành hai dòng tư tưởng
chính : bảo thủ và cấp tiến. Bảo thủ là trung thành với hệ thống giá trị cũ.
Cấp tiến là tầm nhìn ra xu thế tất yếu của thời đại.
- Ngu Trung. Loại bảo thủ được gọi là tên là
ngu trung, có thể cho là có phẩm chất tốt nhưng trí tuệ thì bất cập, không kịp
thay đổi nhận thức theo tình hình mới, loại nầy bao giờ cũng đông hơn loại cấp
tiến, có các đặc điểm sau đây :
1* Nhận thức (của họ) tồn tại lâu bền hơn đối với
thực tiễn đã thay đổi. Sự thay đổi của thời đại thì đã rất hiển nhiên.
2*Nhận thức đã xơ cứng và trở thành giáo điều,
các giáo điều luôn được xưng tụng, thờ cúng như một điều thiêng liêng, học
viện trở thành giáo đường, cái mới trở thành điều cấm kỵ. Đó là niềm
tin vào một ông vua xấu (hôn quân), vào một giòng tộc (trở thành gia đình trị,
thí dụ như Bắc Triều Tiên), vào một học thuyết không còn phù hợp thời đại.
3*Nhận thức của ngu trung còn được bao bọc và che lấp
bởi vai trò của quyền lực đang nắm và quyền lợi đang có, kể cả những toan tính
của sự “tồn vong” bản thân và con cái kế thừa. Ở đây có thể gọi là ngụy ngu
trung.
Đầu thề kỷ 20, phương Đông đã tiếp cận với nền văn minh
phương Tây, kèm theo đó là chính sách thực dân, nhưng Minh Trị Thiên Hoàng, vua
nước Nhật, một nước đất không rộng, người không đông, đã sớm ý thức, từ bỏ hệ
tư tưởng phong kiến, chuyển hóa và hội nhập với trào lưu mới, dẫn dắt nước Nhật
tránh được con đường lệ thuộc , trong vài thập niên đã nhanh chóng trở thành
một quốc gia hùng cường, có cơ chế dân chủ lành mạnh, mà ngai vàng vẫn
không mất trong sự uyển chuyển và thay đổi tương thích, nhờ tầm nhìn sáng suốtvì
dân tộc của một đấng Minh Quân. Trong khi đó, Việt Nam là một trong những
quốc gia tiếp cận với trào lưu mới rất sớm sủa, nhưng vua quan nhà Nguyễn không
có tư duy độc lập, vẫn khư khư trung thành theo bóng dáng mô hình Trung
Quốc, mãi ôm một thể chế với hệ tư tưởng của thời kỳ phong kiến suy tàn, khi
nhận ra thì đã quá muộn, nước mất, ngai vàng mất và thân phận giòng tộc cũng
chẳng ra gì, mà từ đó nhân dân phải lầm than để thực hiện cuộc một cuộc chiến
đấu cả một trăm năm chưa xong.! Quá đúng và quá xứng đáng là một bài học
lịch sử lớn lao cho các thế hệ hôm nay, về cách nhìn thời đại, để không vướng
vào trọng tội đáng tiếc là ngu trung, hayngụy ngu trung.
--Khi quân Nguyên Mông chuẩn bị lăm le bờ cỏi, tướng quân
Trần Hưng Đạo đã làm trong sạch hậu phương, bằng cách đích thân đến tắm cho
tướng quân Trần Quang Khải để xóa mối hiềm khích gia đình, và truyền “Hịch
Tướng Sĩ”, nêu rõ : “Nếu giặc vào thì Thái Ấp của các ngươi cũng không còn…”.
Mồ mã tổ tiên, biệt thự, nhà thờ hoành tráng mà các người đang xây, xe hơi BMW
cũng không còn, các doanh nghiệp nghìn tỷ của các người cũng sẽ bị lấn ép và
thôn tính., làm thân lưu vong chẳng vinh dự gì.. Mộng làm Thái Thú cũng
không nên mơ màng tới, vì nhân dân sẽ chiến đấu. Vua Trần đã hiểu ý của nhân
dân, biết khơi sức mạnh của nhân dân, thể hiện và tôn trọng quyền dân chủ của
nhân dân, nên đã triệu tập Hội Nghị Diên Hồng, nhằm cũng cố lòng dân bằng câu
hỏi đanh thép ngắn gọn “hòa hay chiến ?” Đó là tấm gương dân chủ đầy nghệ
thuật, rất độc đáo của tinh thần Việt Nam.
--Nhà Mạc, vì không hiểu sự suy vi nội bộ trầm trọng của nhà
Minh, tưởng chúng mạnh, mà khấu đầu chịu trói tự nộp mình cho nhà Minh, gây nên
nổi quốc nhục, nên sĩ phu và nhân dân chống đối. Cái nhìn của nhà Mạc không
vượt qua được biên giới lãnh thổ, tạo thời cơ, mà không chê trách được, cho ngu
trung nhà Lê nỗi lên chống lại.
--Trong hoàn cảnh lạc hậu và nhiểu nhương của thời Nam Bắc
phân tranh, mà Nguyễn Huệ, với bản lĩnh và tinh thần bất khuất, nhìn thấu ruột
gan kẻ địch, dám đánh và đã thổi bùng lên sức mạnh chiến đấu của nhân dân vì
chính nghĩa, ngu trung không dám hé răng, chỉ còn biết thở than, mà
đau lòng cho lắm,thì như đại thi hào Nguyễn Du là tột đỉnh. Truyện Thúy Kiểu,
văn chương, tình ý tuy hay, nhưng đó là những trang kịch thơ bi thảm .
--Thời kỳ lệ thuộc Pháp, nhân dân lầm than đói khổ, nhưng Hồ
Chí Minh với tư duy hợp thời đại lúc bấy giờ, nắm vững ngọn cờ dân
tộc dân chủ, đã khơi dậy ý chí của toàn dân, đã đánh thắng các kẻ thù cướp
nước, giành lại được độc lập, dù chưa được trọn vẹn, và thời gian cũng ngắn
ngủi !…; 37 năm chưa hẳn gọi được là độc lập,vì đan xen chiến tranh (tự
vệ), suy thoái và chập chờn đổi mới ; Đảng CSVN, tuy có công lao, nhưng chưa đủ
để tự phong là “vĩ đại”, nên hạ nhiệt cái tầm cao “kiêu hãnh Cọng sản”, chuyển
cái “dân chủ gấp triệu lần” biến vào lòng nhân dân để tạo nên sức mạnh chống
ngoại xâm.
Cái ngu trung ngày nay là cuộc ăn nằm chung thủy
với hệ thống tư duy lạc hậu, trong mớ chăn màn nhàu nát của hào quang cũ. Vượt
qua cửa nhà, vượt qua “vinh thân phì gia”, vượt qua tư duy quen nếp, là vượt
qua ngu trung để thấy thời đại.
Câu trả lời vĩnh viễn của dân tộc Việt là Quyết Chiến, là
Đánh ! Đánh cho chúng không còn manh giáp, nếu không được, thì vẫn tiếp tục
chiến đấu 10 năm, 50 hay cả trăm năm như cha ông đã từng làm, như lịch sử đã
chứng minh. Nhưng đánh thế nào, đó là mưu lược, bản lãnh của người cầm quân, kẻ
đang mang quân hàm, đeo lon tướng tá giữ phần quan trọng, cùng với trí tuệ
và tinh thần dũng cảm của nhân dân. Nhân dân chỉ có một câu trả lời duy nhất :
Chiến ! Nhân dân Việt Nam đã trường chinh 150 năm chưa nghỉ, đã từng nằm gai
nếm mật, đã có nhiều cách đánh. Nhưng trước hết, không mắt mưu chúng về hướng “diễn
biến hòa bình”, hướng đó chính là từ phương Bắc, không thể mơ hồ. Sự
mơ hồ lúc nầy là tạo thời cơ cho giặc. Chủ đề lớn về tư tưởng của
thế giới hiện nay: Kẻ thủ ác toàn cầu của thời đại ngày nay là chính Bắc Kinh,
chúng đang đi trên con đường đẫm máu, khốc liệt hơn cả chủ nghĩa thực dân phát
xít. Không có lý gì để kết thân với chúng. Thế mà...
http://nguoilotgach.blogspot.com/2012/08/su-suy-thoai-trong-lich-su-va-hai-chu.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét