20-8-2012
Trong tuần qua, một câu chuyện nổi lên trong lĩnh vực kinh tế là việc xuất khẩu hàng hóa của nhiều doanh nghiệp sang Trung Quốc đang có dấu hiệu bị gây khó khăn, đình trệ. Những thông tin từ hải quan các cửa khẩu ở các tỉnh có đường biên giới giáp Trung Quốc như Lào Cai, Lạng Sơn, Hà Giang…đều cho thấy có sự hạn chế, suy giảm rõ rệt về lượng hàng, kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc mà không phải do nguyên nhân từ phía Việt Nam .
Những con số thống kê mới nhất đều chứng minh rõ xu hướng này. Tại Móng Cái (Quảng Ninh), tính đến nay, khu vực cửa khẩu này còn tồn hơn 3.800 container hàng hóa các loại, trên 1.300 container hàng để lâu ngày phải cắm điện bảo quản chờ xuất. Ở Lạng Sơn, như tại cửa khẩu Tân Thanh nếu như đầu năm bình quân mỗi ngày có khoảng 300-400 xe vận chuyển hàng hóa qua thì đến thời điểm này, theo Cục Hải quan Lạng Sơn, chỉ còn khoảng 100-200 xe/ngày. Khu vực cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị cũng vậy, thông tin cho biết từ tháng 6 đến nay, hoạt động xuất khẩu đã giảm đáng kể…
Một ví dụ đáng suy nghĩ nhất là mới đây, một đoàn xe 6 chiếc chở 8 lô hàng của công ty TNHH Thương mại dịch vụ tổng hợp Hà Thành của Việt Nam chở hàng sang cho một đối tác Trung Quốc tại Pò Chài (Bằng Tường-Trung Quốc) đã bị Hải quan Trung Quốc giữ lại toàn bộ mà không nêu rõ lý do. Trong khi đó, theo kiểm tra hồ sơ của Cục Hải quan Lạng Sơn thì 8 lô hàng này đầy đủ giấy tờ, hóa đơn và không có gì vi phạm. Điều này cho thấy, việc hạn chế hàng xuất khẩu của Việt Nam có thể không chỉ nhằm vào hàng tiểu ngạch mà cả ở hàng hóa xuất khẩu chính ngạch. Vụ bắt giữ hàng vô cớ này đang khiến cho nhiều doanh nghiệp Việt Nam cảm thấy, việc làm ăn với các đối tác Trung Quốc đang trở lên bất an hơn bao giờ hết.
Nguyên nhân chính hiện được cơ quan quản lý Việt Nam xác định là do phía Trung Quốc tăng cường giám sát, chống buôn lậu, tăng cường kiểm tra, kiểm dịch…mà theo ngôn ngữ của các doanh nghiệp thường xuyên xuất, nhập khẩu hàng sang Trung Quốc gọi là “cấm biên”. Thường mỗi năm phía Trung Quốc có 1-2 đợt tăng cường, mỗi đợt 1-2 tháng nhưng năm nay, đợt “tăng cường” này đã kéo dài bất thường từ tháng 4 đến nay và dự kiến sẽ còn kéo dài thêm vài tháng nữa.
Chưa thể khẳng định là những bất đồng trong quan điểm về chủ quyền lãnh thổ tại Biển Đông là nguyên nhân sâu xa dẫn đến việc tăng cường kiểm tra, kiểm soát…dẫn đến hạn chế, làm giảm hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam vào Trung Quốc. Nhưng những động thái tương tự mà cơ quan quản lý phía Trung Quốc áp đặt, hạn chế lên mặt hàng chuối vả một số hàng nông sản khác mà Philipines xuất khẩu sang nước này sau sự kiện tranh chấp ở bãi cạn Scarborought của Philippines cũng là điều khiến doanh nghiệp, cơ quan quản lý ngoại thương của Việt Nam lưu tâm. Bởi với Trung Quốc, từ những khúc mắc trong quan hệ ngoại giao dẫn đến những cản trở trong quan hệ thương mại, làm ăn với nước khác đã không còn là chuyện lạ.
Trên một phạm vi rộng hơn, cũng đã đến lúc cần nhìn lại quan hệ hợp tác kinh tế về nhiều mặt với người láng giềng Trung Quốc để có những điều chỉnh cho phù hợp. Hợp tác kinh tế với Trung Quốc tất nhiên, do sự gần gũi về địa lý, sự tương đồng về cơ cấu kinh tế, những sự thiếu hụt hay dư thừa về một số chủng loại nguyên, nhiên vật liệu, hàng hóa ở cả 2 nước cần có giao thương, trao đổi để bù đắp là rất cần thiết và có thể nói, cũng đã đem đến những hiệu quả nhất định. Nhưng quan sát trong nhiều năm gần đây, điều rõ ràng là Việt Nam đang chịu thiệt hơn rất nhiều trong quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư với Trung Quốc và đã có những cảnh báo cần sớm có điều chỉnh để tránh một sự lệ thuộc, mất cân bằng trong quan hệ kinh tế với quốc gia này.
Nhìn vào thực tế quan hệ thương mại với Trung Quốc, hơn 10 năm qua, Việt Nam không khi nào được lợi. Theo các con số thống kê của Tổng cục Hải quan, Bộ Công thương, từ chỗ xuất siêu sang Trung Quốc 135 triệu USD năm 2000, Việt Nam đã bắt đầu chịu thâm hụt với Trung Quốc vào năm 2001, và mức thâm hụt này đã tăng liên tục, đặc biệt là từ năm 2006 đến nay.Năm 2007, nhập siêu từ Trung Quốc của Việt Nam là 9,145 tỷ USD. Năm 2008 tăng vọt lên con số 11,16 tỷ USD. Năm 2009, con số này đã tăng tiếp lên 11,532 tỷ USD. Năm 2010, nhập siêu từ Trung Quốc đã nâng lên mức báo động đỏ: ước 12,6 tỷ USD, bằng 105% mức nhập siêu cả năm (12 tỷ USD) của Việt Nam. Năm 2011, nhập siêu từ Trung Quốc đã lên đến 13,5 tỷ USD-một con số có thể nói: kinh hoàng !.
Sự bất tương xứng trong quan hệ thương mại 2 bên như vậy có thế nói là nghiêm trọng và nó chính là một nguyên nhân gây bất ổn cho điều hành kinh tế vĩ mô của Việt Nam . Bộ Công thương vẫn lý giải là do ngành công nghiệp phụ trợ trong nước yếu kém, Việt Nam phải nhập khẩu các nguyên liệu vật liệu phục vụ cho hoạt động sản xuất trong nước và cho xuất khẩu; Trung Quốc có những loại đầu vào phù hợp với nhu cầu của các doanh nghiệp trong nước, nên nhập khẩu từ thị trường này tăng…Nhưng dù nói thế nào, con số nhập siêu chênh lệch một cách nguy hiểm như vậy là khó có thể chấp nhận được. Và đáng lo ngại là những giải pháp để nhằm làm giảm bớt sự mất cân bằng về thương mại rõ ràng đang chưa đỉ đến đâu khi 7 tháng đầu năm nay, theo con số của Bộ Công thương đưa ra, nhập siêu từ Trung Quốc đã lên tới 8 tỷ USD.
Nhìn vào nhiều quan hệ hợp tác đầu tư, kinh doanh khác, đều có những cơ sở để những người có trách nhiệm phải xem lại, điều chỉnh các quan hệ đó để đảm bảo lợi ích cho Việt Nam . Việc phải tiếp tục mua điện từ Trung Quốc với giá không còn rẻ qua các tỉnh giáp biên như Lào Cai, Hà Giang…trong khi nhiều nhà máy điện trong nước phải kêu gào EVN mua điện cho họ, với giá rẻ là điều khó chấp nhận. Thêm nữa, hàng loạt nhà máy điện do các nhà thầu Trung Quốc trúng thầu, khiến Việt Nam phải nhập khẩu lượng máy móc, thiết bị có giá trị rất lớn, lên đến hàng tỷ USD cho mỗi công trình…góp phần quan trọng làm nghiêng lệch cán cân thương mại về phía Trung Quốc, trong khi phần lớn các công trình này chậm tiến độ nghiêm trọng. Đây là những vấn đề đáng đặt câu hỏi lớn về trách nhiệm của những người có thẩm quyền khi không sớm nhìn nhận ra vấn đề trên, để cho nền kinh tế không khỏi bị những ảnh hưởng nhất định, không chỉ bây giờ mà có thể lâu dài về về sau do để xảy ra tình trạng lệ thuộc về năng lượng, về những nguồn năng lượng bị chậm tiến độ ấy…
Do đó, hơn lúc nào hết, vào thời điểm này, tuy cũng đã là khá muộn, rõ ràng cần phải xem xét lại toàn diện quan hệ hợp tác thương mại, kinh tế, đầu tư Việt-Trung. Đành rằng, nhìn tổng thể, nhiều hoạt động hợp tác đó xuất phát từ những nhu cầu hợp lý, khách quan giữa 2 nền kinh tế, của cộng đồng doanh nghiệp 2 nước. Nhưng nhìn thực tế kết quả trao đổi, hợp tác 2 bên thì Việt Nam đã chịu thiệt hại, ở thế bất lợi rất nhiều năm và đến nay, cần phải có những sự nghiên cứu, điều chỉnh mạnh để giảm bớt, càng nhanh càng tốt mức độ bất tương xứng trong quan hệ thương mại 2 bên.
Việc vừa qua, Bộ Khoa học và Công nghệ đã đưa ra các giải pháp hạn chế nhập khẩu máy móc, công nghệ lạc hậu do Trung Quốc thải loại từ hơn 1800 nhà máy lạc hậu, ô nhiễm là một bước đi đúng. Nhưng ở nhiều lĩnh vực khác như xuất, nhập khẩu hàng tiêu dùng, cơ khí, điện năng, khai khoáng…cần phải có sự vào cuộc, xem xét và điều chỉnh mạnh mẽ để Việt Nam không bị thiệt thòi, ở chiếu dưới trong mọi quan hệ hợp tác về kinh tế, thương mại và đầu tư với người láng giềng đặc biệt khôn khéo, khó chơi này.
http://blog.yahoo.com/_JZXZAHPXGRMY4VFUTPJHDX24S4/articles/930078
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét