13-8-2012
Hình bên: Trần Thị Nga trong một lần biểu tình về quyền lợi của người lao động Việt Nam tại Đài Loan. Đúng vào ngày 9/12/2007, ngày nổ ra các cuộc biểu tình yêu nước phản đối Trung Quốc ở 2 đầu cầu Hà Nội và Sài Gòn.
Dưới đây tôi sẽ đăng bài viết “Phải nhận rõ trạng huống bình
dân ở xứ ta” của tác giả Phan Bội Châu trên báo Tiếng Dân ngày 11/4/1936. Thực
ra tôi chỉ định gửi riêng cho chị Trần Thị Nga để tham khảo, một người phụ nữ
xuất phát điểm là một công nhân ban đầu do mưu sinh cuộc sống mà lưu lạc xứ người
nhưng với tình yêu con người mà Chị đã giúp đỡ cho những người đồng cảnh ngộ về
kiến thức, kinh nghiệm đã trải qua. Cũng qua Internet mà chị Nga cũng như nhiều
người đã tham gia vào phong trào biểu tình yêu nước trong mùa hè năm 2011 và
2012 mới đây.
Cố nhiên là tôi không có ý định đề cao chị Nga so với biết
bao phụ nữ, anh thư can đảm đã-đang dấn thân-nhập cuộc vì áp bức bất công, vì tình
yêu quê hương nhưng phải chịu cảnh tù đày, sách nhiễu, khủng bố trong cuộc sống.
Nhưng đọc một số bài viết của tập thể các nhân sĩ-trí thức trong thời gian gầy
đây ví dụ như:
- Các tác giả độc lập với tư cách là công thần, tướng lãnh, trí thức của chế độ
gửi cho lãnh đạo ĐCSVN.
Nên tôi chân thành mong mỏi các anh, các chú, các bác là trí
thức chiếu cố qua bài viết dưới đây của cụ Phan Bội Châu, tưởng rằng như chỉ có
ở thời thực dân-phong kiến nhưng đọc xong chúng ta sẽ cảm nhận thấy quen thuộc,
gần gũi làm sao. Từ đó mong các bậc nhân sĩ-trí thức có những hành động thiết
thực, dẫn dắt cho đại bộ phận dân đen thức tỉnh thay vì lâu nay chỉ kiến nghị,
thư ngỏ cho lãnh đạo ĐCSVN mà thôi. Thực tế phũ phàng cho thấy xưa nay các đời
lãnh đạo ĐCSVN đều bỏ ngoài tai với những thư góp ý, khiến cho vận nước mới suy
vi, nhân tình thế thái mới băng hoại trên mọi lãnh vực như ngày hôm nay.
==============
PHẢI NHẬN RÕ TRẠNG HUỐNG “BÌNH DÂN” Ở XỨ TA
“Giai cấp bình dân”, “văn chương bình dân”, “chủ nghĩa bình
dân”, vài năm nay chúng ta thường nghe tiếng hô hào ấy, hô hào một cách vang động.
Ở trong một xứ theo chính thể chuyên chế và chế độ phong kiến
như ở nước Tàu đã mấy ngàn năm, hạng bình dân là hạng “bạch đinh thập phẩm”,
thuở nay không ai thèm đếm xỉa đến, xem như dê rô(1). Mà ngày nay nhân phong
triều chung trên thế giới lần lượt tràn vào, đã có người biết đến địa vị, giá
trị và thế lực bình dân trong xã hội, điều ấy đáng khiến cho công chúng để ý mà
lần lần giác ngộ.
Những hạng quý phái thuở nay ngồi không ở nể, bụi không đến
chân, mồ hôi không ra khỏi lỗ chân lông mà ăn sung mặc sướng, chiếm cả lạc thú
của nhân sinh, ấy là nhờ bọn bình dân cung cấp cho. Nếu không có hạng chân lấm
tay bùn da chì mặt nám, thì phái sang kia đâu có cảnh sung sướng đó!
Thuở nay hạng bình dân đầu tắt mặt tối, bán sức nuôi thân,
trăm điều bị bóc lột, không có học hành, không giao thiệp với giai cấp khác,
ngoài cổng làng và nồi gạo ra, không biết trên đường sống của loài người còn có
những gì. Nay nhân phong trào NHÂN QUYỀN xô động, cùng hoàn cảnh sinh
hoạt thúc giục bên chân, mà họ tỉnh giấc mê mộng, không khác nào trong buồng
kín mà có tia sáng lọt vào, lần lần nhìn biết địa vị mình có quan hệ với xã hội.
Theo trào lưu dân tộc cạnh tranh ngày nay, một dân tộc, một
quốc gia thịnh suy, còn mối quan hệ tại phần đa số, mà không phải tại số ít, đại
đa số tức là hạng bình dân.
Đấy, địa vị và giá trị của thế lực bình dân trong xã hội
ngày nay là thế. Dầu cho ai ngoan cố như thế nào, cũng phải công nhận mà không
thể xem là “dê rô” như ngày trước được nữa.
Tuy vậy, nói chung thì thế, mà nói riêng từng bộ phận, từng
xứ sở thì đồng là bình dân mà vị trí, trình độ có chỗ không đồng đều nhau. Nói
đại khái như bình dân ở xứ văn minh cường thịnh với bình dân xứ dã man ngu dốt,
bình dân của nước chinh phục với bình dân của nước bị chinh phục v. v… cũng như
đi trên một con đường mà kẻ thì đi xe hỏa, xe điện, mà người thì đi võng, xe
tay, xe ngựa huặc đi bộ. Theo con mắt duy vật mà xem, không cho là trình độ hơn
kém khác nhau không được.
Nói hơn kém, không phải nói mình kém thì không đáng đi con
đường phải đi đó đâu. Song cốt phải nhìn biết bước đường của mình mà đi cho khỏi
lạc, hay nói cho đúng là từ chỗ thực địa, từ chỗ mình đứng chân mà bước đi, hơn
là ngồi tính dặm đường hay nghe chuyện đường xa mà khiến cho phần đông sinh ngợp,
sinh chán.
Trong sự “ngợp chán” đó, thì học thuyết cao xa đối với bình
dân ta là một điều đáng bàn luận.
Bình dân ta phần đông ra thế nào? Nói học thức thì 100 phần
đến trên 90 mấy phần trăm mang cái nạn mù chữ. Nói về sinh kế, thì quanh năm trọn
tháng, tuôn mồ hôi nước mắt đổi lấy bát cơm, tấm áo mà không rồi, gia dĩ cái nạn
tham nhũng, bóc lột trăm đường… chỉ chuyện thông thường làm xâu nộp thuế mà còn
bị phù thu lạm bổ, cho đến viết cái thư không thông, trông chờ vào tờ Mandat(2) hay
bức điện tín như ngó vào rừng rậm, trừ một ít thanh niên có cái hân hạnh lúc nhỏ
có theo học được năm ba năm , còn biết chuyện ngoài đôi chút. Cũng còn là con số
ít. Ngoài ra chỉ lo ứng phó với sự sống hàng ngày mà không xong, như vậy đem những
thuyết cao xa như xã hội học, biện chứng pháp và những danh từ mới, phô cho họ
nghe, bảo nghe thế nào chớ?
Vậy theo sở kiến hẹp hòi của kí giả, nên theo chỗ thông thường
trên đường sống hiện tại mà chỉ dẫn cho họ, như chuyện xảy ra trong xứ mà tiếp
xúc mật thiết với sự sống của họ, chuyện phù thu lạm bổ trong hương thôn, lạm
quyền trái phép của kẻ thừa hành công việc và những tấn kịch lường công bớt gạo
của bọn tư sản. Chỉ vạch cho họ giác ngộ, sau mới dẫn tiến lên đường mới. Nếu
không chăm vào chỗ cần thiết đó mà đem những học thuyết cao xa đó kêu gào hàng
ngày, nói gần bình dân mà kì thực cách xa họ đến muôn ngàn dặm!
Nghe lời nói trên, xin ai chớ tưởng là nói ngoa, hãy xem
sách báo ngày nay mà nói đến việc xã hội, kinh tế, tự xưng là đem đường chỉ lối
cho bình dân, rõ là nói với hạng bình dân của Âu Mỹ đâu đâu, chớ không phải nói
với đại đa số bình dân ở xứ ta. Vì trên đường sống hiện tại của bình dân, phần
đông không chịu xét chỗ thực tế mà chỉ rao suông trên mặt giấy: phấn đấu! tiến
thủ!
Phải, ở đời cạnh tranh sinh tồn này phải phấn đấu tiến thủ mới
sống được, nhưng bước đi ngả nào?
Kìa! Ông Lý bắt xâu, thầy Chánh thúc trích lục, trống mõ
làng rầm rầm kia, mà trong nhà gạo đã kiệt, trẻ con đường đòi cơm, biết làm
sao?
Nói đến hai chữ “Bình dân” xứ ta, nên nhận rõ tình cảnh ấy.
(Tiếng
Dân ngày 11-4-1936)
Chú thích :
(1) Dê rô: tiếng Pháp Zéro: số không
(2) Mandat: tín phiếu gửi qua bưu điện
==============
Theo trang 497-499, tập 7, Phan Bội Châu toàn tập, NXB Thuận
Hóa
https://donghailongvuong.wordpress.com/2012/08/13/mot-bai-viet-hay-tang-tran-thi-nga-o-ha-nam-va-cac-tri-thuc/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét