Thường Sơn
CTV Phía Trước
“Nhân vật của năm 2011" |
“Ông vua béo với anh hành khất gầy chỉ là hai món ăn
trên cùng một bàn tiệc” – Lời của Hamlet trong vở bi kịch của Shakepeare.
Xem thêm: Thống đốc Nguyễn Văn Bình?(Phần I)
Nhân vật của năm 2011
Với học vị tiến sĩ khoa học kinh tế và được xem là người có
chuyên môn về ngành ngân hàng, Nguyễn Văn Bình đã nhanh chóng chiếm được cảm
tình của dư luận và báo giới, trong bối cảnh nền tín dụng và tiền tệ Việt Nam
chìm sâu trong cơn buốt giá lạm phát cùng quá nhiều nguy cơ vừa phát lộ vừa
tiềm tàng trên thị trường tiền tệ và các thị trường đầu cơ sau tiền tệ.
Khi năm suy thoái 2011 chưa kết thúc, người vẫn còn được xem
là tân Thống đốc của Ngân hàng nhà nước đã được VnExpress, một tờ báo điện tử
có lượng truy cập lớn ở Việt Nam, bầu chọn là “Nhân vật của năm 2011”. Cũng cho
đến lúc đó, ít ai biết được việc Bình chính là một mắt xích quan yếu nhất mà
theo những tin tức tin cậy, nhân vật “bố già” Nguyễn Đức Kiên đã bằng nhiều
cách, từ vận động hành lang đến tác động trực tiếp vào khâu tổ chức cán bộ, để
kết quả là Bình đã tiếp cận được vị trí ủy viên Trung ương Đảng cùng chức vụ
Thống đốc Ngân hàng nhà nước.
Hoạt động vận động trên đã diễn ra vào thời thịnh trị của
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Với vai trò gần như không thể thay thế trong Bộ
Chính trị, tiếng nói của Dũng đã trở nên có tính quyết định về bước đường công
danh cho người đệ tử của ông.
Cùng lúc, gương mặt sáng giá của Nguyễn Văn Bình cũng làm
nên một lớp sơn tôn tạo cho ông trong con mắt của báo giới. Trong thời gian đầu
Bình chấp nhiệm chức vụ thống đốc, không chỉ VnExpress mà một số tờ báo khác đã
bày tỏ thái độ nhiệt tình ủng hộ đối với ông, đặc biệt liên quan đến một số vấn
đề có tính cải cách quản lý nhà nước đối với thị trường vàng, ngoại tệ và lãi
suất mà ông nêu ra.
Khá dễ hiểu là đối với bất kỳ một quan chức nào trong bộ máy
chính quyền, người dân cũng chỉ mong ngóng đến sự thay đổi, dù là một chút. Chỉ
có điều, không có người dân Việt Nam nào có thể tự tin về một sự đổi thay đất
nước như Tổng thống Barack Obama đã làm cho dân tộc Mỹ sau khi thắng cử.
Uy tín của Nguyễn Văn Bình có thể đã đạt đến đỉnh cao chỉ
sau hai tháng hành động. Vào đầu tháng 9/2011, quyết định về tái thiết lập trần
lãi suất huy động 14% của Ngân hàng Nhà nước và tiếp theo đó là động tác xử lý
quyết liệt những vi phạm vượt trần tại một số chi nhánh ngân hàng thương mại cổ
phần, đã làm cho dư luận bất ngờ sôi nổi, càng khiến người ta kỳ vọng vào động
cơ trong sáng của thống đốc nhằm làm trong sạch ngành ngân hàng – nơi vẫn bị xem
là tập trung rất nhiều khuất tất của nạn đầu cơ ngầm, cũng như đã tạo ra hố
phân hóa giàu nghèo quá lớn so với khối doanh nghiệp trong hoàn cảnh con tàu
kinh tế đất nước đang lao về vực thẳm.
Chỉ có điều, cho đến lúc đó vẫn ít ai nghiệm ra được cái vực
thẳm ấy đã được tạo ra bởi một vực thẳm khác.
Vực thẳm khác chính là thị trường liên ngân hàng.
Vực thẳm thanh khoản
Vào đầu năm 2012, trong một hội nghị ngành ngân hàng, giám
đốc Ngân hàng BIDV chi nhánh Hà Nội, ông Ngô Văn Dũng, đã cung cấp những thông tin
rất tương đồng với dư luận về vấn đề vượt trần lãi suất huy động trong thời
gian gần đây: “Trên thực tế, kỷ cương lãi suất huy động trên thị trường ngân
hàng chỉ giữ được từ ngày 7/9 đến hết tháng 9/2011. Còn từ tháng 10/2011 đến
nay, đặc biệt là tháng 12/2011, thị trường ngân hàng đang phải chịu đựng tình
trạng mặc cả lãi suất, song không dễ phát hiện, không dễ tố cáo”.
Phát ngôn trên là thái độ thừa nhận công khai đầu tiên của
một quan chức ngành ngân hàng, sau nhiều dị nghị của dư luận nhưng vẫn chưa hề
nhận được hồi đáp hoặc lời giải thích nào từ phía lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước.
Dĩ nhiên sự phân hóa trong khối ngân hàng đã không diễn ra
một cách bằng phẳng, càng không mang dáng dấp của hình ảnh công bằng mà các
quan chức thường diễn thuyết về chủ nghĩa xã hội. Mà thực tế, đó chỉ là một thi
trường của loài cá lớn và những con cá bé.
Bị chèn ép cũng là một động lực khiến cho người ta có thể
phải tiết lộ về hoàn cảnh của mình vào một lúc bĩ cực nào đó.
Từ giữa tháng 10/2011, đột nhiên lãi suất liên ngân hàng
trong thị trường II tăng mạnh. Ban đầu mức tăng đến 16% đã được xem là khá cao.
Nhưng sau đó, lãi suất liên ngân hàng đã tái hiện hình ảnh của chỉ số lạm phát
trong năm 2011 khi tăng đến 23%. Thậm chí có thời điểm đến 30%.
Thị trường II khi đó được mô tả như một sự hỗn loạn. Những
người có thâm niên kỳ cựu trong ngành ngân hàng đều phải thừa nhận là hiếm có
một thị trường liên ngân hàng nào trên thế giới lại dễ bị thao túng và dễ chao
đảo như ở Việt Nam.
Một sợi dây thòng lọng đã được thắt nút, nhưng không phải
với doanh nghiệp đã và đang khát vốn, mà nhắm đến chính một số ngân hàng thương
mại nhỏ. Đó cũng là những ngân hàng bị xem là yếu kém, bị dư luận nhỏ to đồn
đoán về một danh sách “đen” nào đó của Ngân hàng Nhà nước chứa đựng những ngân
hàng như thế.
Tình hình trở nên hỗn loạn trên thị trường liên ngân hàng
trong suốt tháng 10/2011. Hàng loạt ngân hàng thương mại nhỏ, dù trước đó chưa
từng kêu ca về chuyện “thỏa thuận” lãi suất huy động lên đến 20-25% với khách
hàng, lại buộc phải kêu thét về cái giá cắt cổ mà họ phải đi vay từ các ngân
hàng lớn.
Vì sao lại xảy ra nạn đói vốn ghê gớm mà đã dẫn đến chuyện
kêu khóc như thế?
Một chuyên gia ngân hàng và cũng là thành viên của Hội đồng
tư vấn chính sách tài chính và tiền tệ quốc gia – tiến sĩ Trần Hoàng Ngân – vào
thời điểm đó đã đánh giá: tác động điều chỉnh của Ngân hàng Nhà nước tăng lãi
suất tái cấp vốn từ 14% một năm lên 15%, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh
toán điện tử liên ngân hàng từ 14% lên 16% mỗi năm, áp dụng từ ngày 10/10/2011
cũng là một nhân tố đẩy lãi suất liên ngân hàng dâng cao. Và một khi lãi suất
liên ngân hàng đã tăng cao thì nó cũng giống như cơn bệnh đã lộ ra, tức dấu
hiệu lâm sàng của căn bệnh thiếu thanh khoản.
Tất nhiên có nhiều lý do để giải thích cho tình trạng “bất
ngờ” thiếu hụt thanh khoản của một số ngân hàng thương mại. Nhưng về mặt thời
điểm, rõ ràng chỉ từ khi Ngân hàng Nhà nước tăng lãi suất tái cấp vốn, những
ngân hàng bị liệt vào loại “có vấn đề” mới thật sự phải đối mặt với chọn lựa sinh
tồn.
Tân thống đốc Nguyễn Văn Bình đã đi nước cờ đầu tiên – một
bước đi rất có tính toán và dự cảm nhiều hứa hẹn.
Trong toàn bộ bối cảnh trắng đen lẫn lộn như thế, Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng đã không hề phát ra một nhận định hoặc có chỉ đạo điều chỉnh
nào.
Những kẻ tuẫn nạn
Nhưng vào thời gian quý 3/2011, giới phân tích ngân hàng và
báo giới hầu như bị hút sự chú ý sang vấn nạn đầu cơ vàng – một địa chỉ vẫn
luôn nhận được lời hứa hẹn “sẽ giải quyết” của lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước,
cũng như thị trường ngoại tệ luôn nhấp nhổm thế phá trần của nó. Trên một
phương diện khác, báo chí rất thường phản ánh tình trạng đói vốn và sắp rơi vào
tình thế kiệt quệ của nhiều doanh nghiệp sản xuất và bất động sản, nhưng lại
hầu như quên mất ngân hàng cùng những lợi ích ẩn giấu mới là nguồn gốc sâu xa
gây ra những hậu quả ấy.
Chỉ mãi về sau này, nhìn lại và suy ngẫm, người ta mới thấy
trong khi đã không có bất cứ một vấn nạn đầu cơ hay khát vốn nào được Ngân hàng
nhà nước giải quyết trong thời gian đó, thì lại đã diễn ra những cuộc sáp nhập
ngân hàng rất mau lẹ và thành công.
Kết quả của sự thành công đã được trù liệu ấy là một danh
sách những ngân hàng nhỏ cần phải được thâu tóm. Lẽ dĩ nhiên, Ngân hàng Nhà
nước là cơ quan lập ra danh sách đó và được thông qua bởi lãnh đạo Chính phủ.
Những ngân hàng được lựa chọn cũng đương nhiên phải thỏa mãn điều kiện yếu kém
về thanh khoản. Không được bơm vốn, ngược lại còn bị siết chặt bởi một số quy
định ngặt nghèo về tỷ lệ dự trữ bắt buộc và những ràng buộc liên quan như tỷ lệ
dự phòng rủi ro nợ xấu, số ngân hàng này chẳng mấy chốc đã rơi vào tình trạng
mất thanh khoản trầm trọng, có nguy cơ dẫn đến phá sản.
Được “lựa chọn” đầu tiên, vấn đề tồn vong của ba ngân hàng
thương mại Ficombank, TinNghiaBank, SCB không phải gì khác hơn là cơn khủng
hoảng thanh khoản. Chỉ khi đó, vai trò của Ngân hàng Nhà nước mới thật sự lộ
diện bằng việc chấp thuận cho sự hợp nhất của ba ngân hàng này.
Tuy vậy, trò chơi chỉ mới bắt đầu.
Sau trung tuần tháng 10/2011, một sự bất ngờ nữa lại xảy đến
khi Ngân hàng Nhà nước nêu ra bốn quan điểm về tái cấu trúc hệ thống –
nhiệm vụ trọng tâm của ngành ngân hàng trong những năm tới.
Theo Ngân hàng Nhà nước, “sáp nhập ngân hàng là xu hướng tất
yếu”.
Chỉ một tuần sau, bài toán xử lý những kẻ đói ăn đã được
giải quyết phần nào: 5 hoặc 6 ngân hàng, mỗi ngân hàng sẽ được Ngân hàng Nhà
nước tái cấp vốn từ 1.000 đến 5.000 tỷ đồng, và đương nhiên các khoản tái cấp
vốn này đều được gắn kèm với điều kiện ngặt nghèo của nó.
Trước đó, những ông chủ của các ngân hàng “có vấn đề” đã không
thể hình dung họ bị đẩy vào một tình thế buộc phải “ngửa tay xin bố thí”. Kết
cuộc của tình thế này chỉ được nhận ra khi mọi sự đã an bài, khi phần thắng
chắc chắn đã nằm trong tay kẻ cầm chịch.
Nhưng lúc đó mọi chuyện đã quá muộn dù chỉ để vớt vát.
Trò chơi thôn tính đã lên đến đỉnh điểm khi một ngân hàng
thương mại nhỏ có tên là Phương Nam bị thâu tóm. Sự kiện này đã không được
nhiều người để tâm, nếu như nó không dẫn đến một sự kiện lớn hơn nhiều: từ vai
trò xếp gần cuối bảng trong tổng sắp ngân hàng về tiêu chí tín dụng, từ vai trò
bị thâu tóm, Phương Nam lại được Ngân hàng Nhà nước xếp vào nhóm ưu tiên về
tăng trưởng tín dụng, đồng thời trở thành ngân hàng thâu tóm một con cá mập rất
lớn là Sài Gòn Thương Tín (Sacombank).
Vào cuối năm 2011, toàn bộ giới đầu tư và các ngân hàng đều
xôn xao về vụ việc thâu tóm này, theo một kịch bản mà người ta chỉ có thể hình
dung xảy ra ở Phố Wall. Chỉ trong một thời gian ngắn chưa đầy nửa năm,
Sacombank đã nằm gọn trong tay của nhóm “bố già” Nguyễn Đức Kiên, cùng với sự
chi phối và hỗ trợ của Ngân hàng Bản Việt – nơi Nguyễn Thanh Phượng, con gái
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, giữ vai trò chủ chốt.
Đế vương và hành khất
Cho đến đầu năm 2012, vụ việc thâu tóm Sacombank đã hoàn
tất. Những lãnh đạo chủ chốt của Sacombank hoặc bị đẩy vào thế làm thuê cho ông
chủ mới, hoặc nghỉ hưu non. Tất cả diễn ra một cách hoàn toàn âm thầm và lạnh
lùng, như nó phải thế trong bầu không khí “capitalisme sauvage” (chủ nghĩa tư
bản dã man) ứng với kịch bản đương đại Việt Nam..
Trong khi đó, tình trạng bĩ cực của các doanh nghiệp đã lên
đến gần đỉnh điểm. Tết 2012 đã chứng kiến một sự phân hóa chưa từng thấy từ kể
từ mùa Xuân năm 1975 và hơn hẳn hậu quả bi thảm nhưng cào bằng của chiến dịch
giá – lương – tiền năm 1985: trong khi ít nhất 80.000 doanh nghiệp phải giải
thể và phá sản cùng hàng trăm ngàn công nhân không có đủ vài trăm ngàn đồng để
mua vé tàu về quê ăn tết, hầu hết các ngân hàng lại công bố không thương xót số
tiền thưởng bình quân lên đến 40-50 triệu đồng cho nhân viên của mình.
Như để vớt vát thể diện đã bắt đầu sa sút của mình từ những
dư luận về thâu tóm ngân hàng lẫn thái độ dung túng cho các nhóm đầu cơ vàng
lộng hành, vào thời điểm sát tết 2012, Nguyễn Văn Bình đã phát đi một thông
điệp về yêu cầu “tiếp tục thắt lưng buộc bụng để kềm chế lạm phát”, cũng như
tiếp tục hứa hẹn sẽ “điều hành chính sách tín dụng linh hoạt và uyển chuyển”.
Nhưng từ thời điểm đó trở đi, xã hội đã trở nên dị ứng trước
chuỗi ngôn từ phủ dụ của người đứng đầu Ngân hàng Nhà nước. Ngay cả một tờ báo
có khuynh hướng ủng hộ Bình trước đó như VnEconomy cũng dần chuyển sang thái độ
hoài nghi.
Hơn bất kỳ một quan chức nào, Nguyễn Văn Bình đã trở thành
“Nhân vật của năm 2011” như trang tin VnExpress bình chọn, với những kết quả rõ
rệt phục vụ cho nhóm tài phiệt ngân hàng chỉ trong chưa đầy nửa năm nhậm chức.
Thành quả lớn nhất mà nhóm tài phiệt ngân hàng đã đạo diễn
trên sân khấu thôn tính có lẽ là cái tên Phương Nam. Từ vị thế một kẻ hành
khất, ngân hàng này đã được biến thành một đế vương.
Nhưng bằng chứng cho sự thay lông đổi áo trên lại không bao
giờ đến từ những công bố công khai của Ngân hàng Nhà nước hay Văn phòng Chính
phủ. Chỉ đến giữa năm 2012, bằng chứng ấy mới được trưng ra bởi một báo cáo chi
tiết của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia – một cơ quan tư vấn trực thuộc
Chính phủ. Theo báo cáo này và theo quan điểm của Ủy ban Giám sát Tài chính
Quốc gia, Ngân hàng Phương Nam cần phải xếp vào loại “tiêu cực”.
Thời điểm hoàn thành báo cáo trên là cuối năm 2011. Tuy vậy,
đường đi của bản báo cáo đã bị án ngữ ngay tại bàn làm việc của Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng.
Từ đó đến nay, sân khấu thâu tóm ngân hàng và nạn hoành hành
đầu cơ vàng đã tạm nhường chỗ cho sân khấu chính trị, với mối liên hệ ràng buộc
về số phận của người được “tôn vinh” là vị thủ tướng tai tiếng và tham nhũng
nhất trong lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng “Nhân vật của năm 2011”.
Ở một thái cực khác, lại đã xuất hiện những dấu hiệu rút
tiền đầu tiên khỏi Ngân hàng Phương Nam của một số đại gia.
Tạm kết, “ông vua béo với anh hành khất gầy chỉ là hai món
ăn trên cùng một bàn tiệc” – lời của Hamlet trong vở bi kịch của Shakepeare.
Còn tiếp…
© 2012 TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC
http://phiatruoc.info/?p=8589
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét