Tác giả: David Brown
Người dịch: Thủy Trúc
Hiệu đính: David Brown
18-07-2012
Cũng giống như có thể dự đoán được hàng năm về những cơn gió
mùa thổi qua Biển Đông, câu hỏi nước nào, hay những nước nào, sở hữu phần nào
trên Biển Đông, đang ngày càng trở nên phiền phức qua mỗi năm.
Qua mùa bão, những đội tàu đánh cá lại nhổ neo và các dự án
thăm dò dầu khí dưới đáy biển lại tiếp tục. Thế là một loạt những đối đầu căng
thẳng đã xảy ra giữa Trung Quốc và Việt Nam, hoặc giữa Trung Quốc và
Philippines. Các nhà ngoại giao yêu cầu tất cả các bên tự kiềm chế, cố gắng xa
tránh những hành động đổ dầu vào lửa.
Câu chuyện rất quen thuộc, và cả một loạt đòi hỏi thách thức
của các bên đều quá phức tạp, đến mức độc giả rất có thể muốn chuyển sang đọc một
chuyện gì khác.
Tuy nhiên, sự thực là những vụ việc gần đây đã làm thay đổi
đánh giá của giới chuyên gia về tranh chấp trên Biển Đông, và có thể cho thấy
con đường đi tới một sáng kiến có ý nghĩa thay đổi cả ván cờ.
Vài năm gần đây, cách hành xử của Trung Quốc với Việt Nam và
Philippines quá đỗi hiếu chiến, đến mức ngay cả những chuyên gia thân thiện nhất
của Trung Quốc cũng khó tìm được lời biện hộ cho họ. Tới gần đây, tính toán
khôn ngoan của Washington vẫn chỉ là, Trung Quốc là một siêu cường mới nổi, tự
mãn, nếu đối xử cẩn thận và tôn kính đối với họ thì có thể thuyết phục họ trở
thành “đối tác chín chắn”.
Tuy nhiên, việc Bắc Kinh khăng khăng yêu sách rằng họ có chủ
quyền “tuyệt đối” trên Biển Đông, tới tận gần bờ biển Singapore, là không phù hợp
với mô hình này. Mà cũng chẳng tương thích với hành động quấy rối không ngớt của
họ nhằm vào ngư dân Philippines và Việt Nam, hay các nỗ lực phần nào
thành công của họ nhằm đe dọa những công ty dầu khí nào có ký hợp đồng với
Manila hay Hà Nội để thăm dò trong vùng đặc quyền kinh tế của hai nước. Những
hành động như thế không thể đi cùng với tuyên bố của Trung Quốc, cho rằng mục
tiêu của họ là hòa bình và ổn định khu vực.
Mộng ước tan vỡ đã bắt đầu với ASEAN và từ bên trong
ASEAN. Nhóm 10 nước này cho thấy chưa đủ đoàn kết để đương đầu với những
thách thức của Trung Quốc. Mặc dù Mỹ, Nhật Bản, Úc và một loạt các nước khác
mong muốn ủng hộ một lối tiếp cận mang tính khu vực nhằm bảo vệ hòa bình, nhưng
ASEAN không thể tiến lên phía trước được. Họ hoạt động trên nguyên tắc đồng thuận;
thật không may cho Manila và Hà Nội, chủ tịch đương nhiệm của ASEAN lại lệ thuộc
vào Trung Quốc, tức là Campuchia. Đáng chú ý, Thái Lan, Myanmar và Lào cũng
không thích va chạm với Bắc Kinh.
Các nước ASEAN đã và đang cố gắng thúc đẩy đồng thuận về một
“bộ quy tắc ứng xử” có tính ràng buộc trên Biển Đông. Vào ngày 9 tháng 7, trước
ngày khai mạc Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) thường niên với sự tham dự của Mỹ,
Trung Quốc và các “đối tác đối thoại” khác, có những thông tin cho rằng các
quan chức cấp cao ASEAN cuối cùng đã đạt được thỏa thuận về bản dự thảo quy tắc
ứng xử. Tuy nhiên, ngược lại, hội nghị đã kết thúc trong hỗn loạn; các bên tham
gia thậm chí không nhất trí nổi với nhau để cho ra một thông cáo chung.
“Cực kỳ vô trách nhiệm” – Ngoại trưởng Indonesia cằn nhằn với
báo giới. “Trung Quốc đã mua ghế [chủ tịch], chỉ đơn giản có thế thôi” – một vị
quan chức ẩn danh cho biết.
Hơn thế nữa, quan điểm cho rằng Trung Quốc thật ra không
thích đối đầu có vẻ như ngày càng khó tin. Hồi cuối tháng 4, Tổ chức Nghiên cứu
Khủng hoảng Quốc tế (ICG, một viện nghiên cứu có trụ sở ở Brussels) phát hành một
báo cáo được lưu ý rộng rãi, trong đó họ đánh giá Bắc Kinh thật sự không kiểm
soát được tình hình, mặc dù bề ngoài có vẻ ngược lại. ICG cho rằng, chính quyền
trung ương Trung Quốc bị công luận lôi kéo, và bị tê liệt bởi những sáng kiến
thiếu sự phối hợp giữa các lực lượng tuần tra bờ biển, công ty dầu khí và chính
quyền địa phương tại các tỉnh ven biển. Đó là một bản báo cáo quan trọng, dựa
vào rất nhiều cuộc phỏng vấn, và chắc chắn nó phản ánh thái độ của hàng trăm
quan chức ở Trung Quốc và các nơi khác. Tuy thế, cho đến nay, chỉ trừ vài giờ đầu
của cuộc va chạm giữa các tàu hải giám Trung Quốc được trang bị vũ khí hiện đại
với tàu tuần tra của Philippines, tại một vỉa đá cách Luzon 140 cây số; ngoài
ra chưa có gì xảy ra để có thể chứng minh giả định của ICG về sự thiếu thống nhất
trong chính sách nội bộ của Trung Quốc.
Tháng 7 này, khi các nhà ngoại giao Trung Quốc gạt bỏ bản dự
thảo của Bộ Quy tắc Ứng xử ASEAN, đó chỉ là một sự kiện tiếp theo cho thấy, về
bản chất, [bản dự thảo] cần phải có sự phê chuẩn của Trung Quốc. Chuyện xảy ra
ngay sau đó là Công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) đưa ra một lời mời
rất ngạc nhiên, đề nghị các công ty dầu khí nước ngoài dự thầu quyền khai thác
9 lô dầu khí nằm ngay sát bờ biển Việt Nam. Và gần như cũng đúng vào lúc đó,
Trung Quốc tuyên bố rằng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và bãi Macclesfield (mà
theo Trung Quốc là bao gồm cả bãi cạn Scarborough mà họ tranh giành với
Philippines gần đây) bây giờ là một đơn vị hành chính của Trung Quốc, gọi chung
là thành phố Tam Sa. Tỉnh Hải Nam đã xúc tiến việc này từ nhiều năm nay; nhưng
cho đến gần đây, chính quyền trung ương vẫn từ chối cấp phép.
Gần đây cũng đã xảy ra hai sự kiện nhập nhằng: Trung Quốc
tuyên bố rằng tàu chiến của Cơ quan Hải giám Trung Quốc sẽ thường xuyên tuần
tra quần đảo Trường Sa, và họ triển khai một con tàu “công xưởng” nặng 32.000 tấn
để phục vụ cho hàng trăm tàu cá nhỏ, một việc mà các chuyên gia Singapore cho
là sẽ làm cạn kiệt nhanh chóng tài nguyên của Biển Đông.[i]
Đáp lại, đòn phản công của Hà Nội là việc bỏ phiếu của Quốc
hội thông qua một đạo luật quản lý biên giới biển của Việt Nam nhưng không nêu
cụ thể biên giới đó ở đâu – dường như là một hành động tương đối vừa phải.
Chính quyền Việt Nam và Philippines muốn làm nhiều hơn nữa để
kềm chế đà tiến xuống phía nam của hải quân Trung Quốc, nhưng tổng tham mưu của
hai nước nói trên, khác với những người dân trên đường phố, hay đa số thành
viên của Quốc Hội hai nước, đều biết rằng lực lượng vũ trang của họ sẽ rất khó
đối phó với quân lực Trung Quốc.
Sau nhiều năm xao lãng, lực lượng vũ trang Philippines gần
như chỉ còn khả năng duy trì trật tự trong nước, chứ đừng nói tới việc ngăn chặn
sự xâm lăng của Trung Quốc. Hải quân, không quân và phòng không của Việt Nam đã
đạt nhiều bước tiến trong thập niên qua và chắc chắn có thể tự vệ trong một cuộc
xung đột với lực lượng hải quân viễn dương Trung Quốc cùng các tàu bảo hộ ngư
nghiệp của nước này. Tuy nhiên, một vụ đụng độ có vũ trang sẽ tạo cớ cho Hải
quân của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc ra tay can thiệp để – như những
kẻ mị dân Trung Quốc thường xuyên đề xướng – “dạy cho Việt Nam một bài học”.
Để tái lập thế cân bằng ở một mức độ nào đó, Manila và Hà Nội
đã tìm kiếm viện trợ về quân sự ở bất kỳ nơi nào có thể. Tổng thống Aquino đặc
biệt trông cậy vào sự sẵn sàng của Mỹ trong việc tăng cường hợp tác song
phương, theo Hiệp định Phòng vệ Chung được ký giữa hai nước từ 60 năm nay. Việt
Nam thì mở rộng mạng lưới quan hệ hơn, mua vũ khí của Nga, Pháp, Canada và Hà
Lan, tranh thủ sự ủng hộ của Ấn Độ trong hoạt động huấn luyện tác chiến bằng
tàu ngầm, và xúc tiến quan hệ hợp tác với quân đội của các nước Hoa Kỳ, Úc và
Nhật Bản.
Washington vui mừng ủng hộ các cuộc tập trận nhằm xây dựng
năng lực cho các bằng hữu Đông Nam Á để tạo khả năng đánh chặn đáng tin cậy.
Tuy nhiên, một cách nhất quán, phía Mỹ luôn gạt bỏ các đề xuất về việc Hạm đội
Thái Bình Dương cần đóng một vai trò giám sát chủ động trong khu vực Biển Đông.
Trong hoàn cảnh hiện nay, Hoa Kỳ cũng không đồng ý bán vũ khí sát thương cho Việt
Nam. Quốc hội Mỹ – vốn dĩ lo ngại có thêm một vướng víu quân sự ở xa, không biết
bao giờ mới kết thúc. Do đó, Quốc hội Mỹ sẽ đòi hỏi chính quyền Cộng sản phải
có sự tiết chế rõ ràng trong cách hành xử với những nhân vật chỉ trích họ ở
trong nước, một đòi hỏi có điều kiện mà đơn giản là Hà Nội sẽ không nhượng bộ.
Chỉ còn đường ngoại giao hay sao? Sau Campuchia, sẽ đến lượt
Brunei là nước tiếp theo giữ ghế chủ tịch ASEAN, rồi đến Myanmar vào năm 2014
và Lào vào năm 2015. Tóm lại, tuần qua, hy vọng đã thu hẹp nhiều về việc
tổ chức ASEAN có thể đối phó với nguy cơ xung đột trên Biển Đông và có lẽ còn
nhằm nuôi dưỡng các giải pháp thực sự cho các bên thù địch.
Một giải pháp “đi đường vòng” sẽ là, hình thành một tập hợp
con của ASEAN – gồm 5-6 nước thật sự lo ngại về nguy cơ Biển Đông bị sáp nhập
vào nước Trung Hoa rộng lớn – để họ đưa ra các sáng kiến riêng của họ. Tình huống
lý tưởng là, Việt Nam, Malaysia, Philippines và Brunei, được Indonesia và
Singapore khuyến khích, sẽ lựa chọn ra những gì họ có yêu sách đòi hỏi và những
gì họ không có yêu sách, như được khuyến cáo trong hai bài viết gần đây của nhà
phân tích độc lập là Greg Poling và Dương Danh Huy.[ii]
Hai nhà phân tích cho rằng, sẽ không nước nào trong số các
nước có yêu sách phải từ bỏ yêu sách của mình vào thời điểm này cả. Nhưng,
thông qua việc làm rõ cơ sở pháp lý cho các yêu sách của họ về biển đảo, và
phân biệt chúng với những tranh chấp phức tạp hơn (nhưng về mặt địa lý thì lại
nhỏ hơn nhiều, căn cứ vào yêu sách đối với các cấu trúc địa lý trên đất liền),
họ sẽ có khả năng tạo thành một mặt trận đoàn kết trước Trung Quốc vào thời điểm
quyết định này:Cơ sở duy nhất sẽ cho phép xử lý các yêu sách biển đảo trên Biển
Đông là luật quốc tế.
Quá trình vừa nêu trên sẽ thách thức năng lực chính trị của
cả sáu nước ASEAN vừa đề cập, đặc biệt là Việt Nam và Malaysia. Việt Nam đã khẳng
định rằng họ sẵn sàng dựa vào luật quốc tế để giải quyết yêu sách chủ quyền,
nhưng làm như vậy có thể gây phản ứng tiêu cực ở một số công dân – những người
mà, tương tự với các đối tượng bên Trung Quốc, luôn giữ quan điểm mang tính
bành trướng rằng đây là “biển lịch sử” của Việt Nam. Đối với Malaysia, họ đơn
giản chỉ cần đứng dậy và được tính đến. Cho đến nay, Malaysia (và Brunei) dường
như vẫn cho phép mình tưởng bở rằng Trung Quốc sẽ thỏa mãn, một khi Bắc Kinh đã
xơi no phần biển ngoài khơi Việt Nam và Philippines!
Trung Quốc vẫn căn cứ vào những khẳng định rằng thủy thủ và
ngư dân của họ đã đi ngang qua “Biển Nam Trung Hoa” từ trong quá khứ, và họ
nghiễm nhiên coi lập luận đó, cùng sức mạnh hải quân ngày càng gia tăng của
mình, là đủ. Chừng nào yêu sách của những quốc gia ven biển khác còn mơ hồ, thế
bế tắc chiến lược vẫn còn tồn tại – tình huống này tạo điều kiện lý tưởng cho
Trung Quốc ngụy tạo thêm “dữ kiện thực tế” và đưa ra những thỏa thuận song
phương mà các nước có yêu sách khác sẽ phải chịu thiệt hại.
Ngược lại, nếu những nước ASEAN có lợi ích liên quan nhiều
nhất có thể xúc tiến một lập trường chung gắn chặt với các nguyên tắc trong luật
quốc tế, thì họ sẽ có một yêu sách mà những nước khác thấy muốn ủng hộ hơn nhiều
– một lần nữa, gương mặt đáng chú ý nhất trong những nước khác đó là Mỹ.
Nguồn: Asia
Times
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2012
http://anhbasam.wordpress.com/2012/07/19/giai-phap-nao-cho-khung-hoang-o-bien-dong/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét