Các
hành động khiêu khích liên tục của Trung Quốc gần đây khiến tình hình biển Đông
vừa dịu xuống lại trở nên nóng hơn bao giờ hết. Và lần này, Trung Quốc vẫn dùng
những chiêu thức cũ để xâm phạm chủ quyền Việt Nam một cách ngang ngược.
Từ việc Trung Quốc cắt cáp dầu khí và bắt giữ ngư dân Việt
Nam trong năm 2011, huy động một lực lượng lớn tàu cá và tàu ngư chính
"chiếm" bãi cạn Scarborough suốt tháng 4-2012, phản đối luật Biển của
Việt Nam, thành lập thành phố cấp địa khu Tam Sa và mở thầu chín lô dầu khí thuộc
vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trong những ngày cuối tháng 6/2012, thoạt
nhìn thì tưởng những hành động xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc rất đa dạng,
nhưng trên thực tế các hành động này chỉ là các nước cờ cũ dùng đi dùng lại.
Tất cả các nước cờ trên dù lặp đi lặp lại nhưng đều phục vụ
cho hai mục đích chính. Thứ nhất là "biến không thành có" để hiện
thực hóa các yêu sách chủ quyền vô lý của Trung Quốc trên biển Đông.
Học giả Taylor Fravel thuộc Viện Công Nghệ Massachusetts
(MIT) trong một bài viết gần đây đã nhận đình rằng "Khác với các lô dầu
khí mà CNOOC đã mời thầu năm 2010 và 2011, các lô mới này không nằm hoàn toàn
trong các vùng biển đang tranh chấp tại biển Đông" và "các công ty nước
ngoài có thể sẽ không hợp tác với CNOOC đầu tư vào các lô đang tranh chấp".
Rõ ràng, đây là một nước cờ mà Trung Quốc liên tục đẩy mạnh
thực hiện từ khi công bố "đường lưỡi bò" năm 2009 đến nay. Mục đích
là để thâu tóm tất cả các khu vực trong "đường lưỡi bò" vốn không hề
tranh chấp trở thành vùng tranh chấp. Sau đó sẽ đòi hỏi trên bàn đàm phán.
Từ xưa nay, hầu hết các cuộc đàm phán chủ quyền đều giống
như các cuộc "trả giá" mà không bên nào có thể lấy hết các lợi ích và
cũng không bên nào chịu tất cả thiệt hại, chỉ là "cò cưa thêm một bớt
hai". Nhưng cũng không thể "ăn không nói có", thích chỉ đâu thì
chỉ. Cho nên, Trung Quốc mới phải đưa ra các tuyên bố phi lý và ngang ngược nhằm
vơ vào càng nhiều vùng tranh chấp càng tốt để ít ra mười vùng tranh chấp cũng
được hai, ba vùng. Còn với những vùng không giành được thì cũng có thể yêu cầu
"gác tranh chấp, cùng khai thác" như chủ trương nhất quán của Trung
Quốc gần 30 năm nay.
Thứ hai, đây là phép thử mà Trung Quốc nhắm tới các nước
khác vì hiệu quả của các biện pháp này phụ thuộc rất lớn vào phản ứng của cộng
đồng quốc tế. Nếu các nước có tranh chấp phản ứng thì Trung Quốc đơn giản là bỏ
ngoài tai. Các nước trong khu vực đồng loạt phản ứng thì Trung Quốc sẽ tổ chức
hội đàm song phương và đa phương để xoa dịu. Còn nếu cộng đồng quốc tế và các
nước lớn cùng phản đối thì Trung Quốc sẽ tạm dừng lại, "chờ thời" rồi
tiếp tục âm thầm thực hiện.
Nhưng phép thử này không hoàn toàn chỉ là "chờ đợi"
phản ứng của cộng đồng quốc tế mà nếu các nước trong khu vực manh động, để xảy
ra xung đột do bị khiêu khích thì Trung Quốc sẽ tận dụng cơ hội để lấy cớ gây
tranh chấp và xâm chiếm, lúc đó các nước khác muốn giành lại cũng khó vì
"sự đã rồi", đúng như nguyện vọng của Trung Quốc.
Tựu chung các phép thử này tiệm cận một biến số: nếu chỉ mỗi
Việt Nam hay Philippines phản đối, Trung Quốc sẽ bỏ ngoài tai. Nếu các nước
ASEAN đứng về phía Việt Nam và Philippines thì Trung Quốc sẽ đưa ra các biện
pháp xoa dịu bằng các cuộc hội đàm đa phương, hay song phương với từng quốc gia
và thể hiện thái độ hợp tác. Nhưng quan trọng hơn hết vẫn là phản ứng của Mỹ và
đồng minh.
Nếu Mỹ thể hiện thái độ sẵn sàng can thiệp và đứng về phía
ASEAN cũng như Việt Nam hay Philippines để yêu cầu Trung Quốc tuân thủ luật
pháp quốc tế thì hầu như Trung Quốc sẽ phải dừng lại. Nếu không vấp phải bất kì
sự phản kháng trong khu vực hay phản đối từ các nước lớn và cộng đồng quốc tế,
Trung Quốc sẽ có thể tiếp tục sử dụng chiến thuật này với các nước khác ở khu vực
tranh chấp.
Giải quyết khó khăn quốc nội bằng chiêu bài thống nhất dân tộc,
phản ứng lại với việc Mỹ tái cân bằng lực lượng, Việt Nam thông qua Luật Biển
hay Philipinnes dựa vào thế lực bên ngoài để "thách thức" Bắc Kinh,
các quan điểm về động thái mới của Trung Quốc tại biển Đông đang phân ra thành
nhiều nhánh. Điều này cũng tương tự như nhiều luồng ý kiến trái chiều trong
lòng nội bộ nước này khi có nhóm đòi "không thể mãi dấu mình chờ thời tự
làm tê liệt mình" hay "phải dạy cho Việt Nam và Philipines một bài học
để phá vỡ thế bế tắc ở Nam Hải".
Ngược lại có quan điểm của các học giả Trung Quốc đòi hỏi cần
đặt lại vấn đề pháp lý "đường lưỡi bò" xem nó là thế mạnh hay chỉ làm
Trung Quốc suy yếu hơn, cũng như cách hành xử của nước này tại biển Đông, có thể
giúp giành thêm lợi ích hay chỉ càng khiến cho cộng đồng quốc tế phản đối và cô
lập Trung Quốc?
Chủ quyền quốc gia là thiêng liêng, bảo vệ lợi ích quốc gia
là chính đáng, nhưng giành lấy chủ quyền hay cướp đi lợi ích của nước khác bằng
phương pháp "bá quyền" thì không có lý do nào chấp nhận được.
Lịch sử Trung Quốc từng thấm nhuần bài học giữa
"vương" và "bá". Tấm gương của Mỹ tại Iraq trong tư thế ồ ạt
về "cơ bắp" vẫn không thể quy thuận lòng người về một mối. Cơ chế sức
mạnh luôn tồn tại hai mặt âm và dương, thiện và ác, tích cực, nhưng cũng lắm hiệu
ứng xấu không thể kiểm soát.
Có được đồng thuận từ cộng đồng - cả bên trong, lẫn bên ngoài-
sẽ làm cầu nối cho sức mạnh thăng hoa. Ngược lại, đề cao sức mạnh cơ bắp bằng
các chiêu bài nghịch với "lòng người" chỉ dẫn đến phản ứng ngược, chuốc
lấy thất bại không tránh khỏi. Nhất là khi quá trình phát triển, hiện đại hóa của
Trung Quốc đang ở khúc quanh.
Một biện pháp dung hòa để cân bằng nhiều lợi ích đang di
chuyển song song một lúc đang cần được Bắc Kinh tính toán lại trước khi các
nhóm diều hâu-hiếu chiến đẩy bàn cờ đi xa tầm kiểm soát.
http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/tuanvietnam/79323/ba-quyen-bien-dong--chien-luoc-hay-lieu-linh-.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét