Hôm 25/6 vừa qua, một vài báo tại
Việt Nam đưa tin việc bắt giữ 25 người tổ chức vượt biên tại Bà Rịa - Vũng Tàu,
mà cái đích của họ là sẽ đến nước Úc. Dư luận lập tức có hai luồng: Một bên tự
hỏi, thời này mà cũng còn vượt biên sao? Một bên đồng tình, một Việt Nam như hiện
nay, không vượt biên, mới lạ!
Với mô hình cũ, chiếc tàu cá mang
số hiệu BT 93700 TS do ông Nguyễn Ngọc Lợi (52 tuổi) làm thuyền trưởng đã được
cải tạo kỹ thuật nhằm đưa 25 người, chủ yếu là dân Nghệ An - đồng hương của
“cha già dân tộc” - với ước mơ đến Úc. Cũng xin nhắc lại, hồi đầu tháng 6 này,
cảnh sát Indonesia đã bắt giữ 50 người từ Việt Nam đang tìm đường vượt
biên đến Úc, nghĩa là chuyện không khan hiếm trong thời buổi “gia nhập WTO”
kiểu Việt Nam.
30 năm rồi vẫn vậy
Tác giả Nguyễn Văn Canh, khi nhìn
lại cuộc đại di dân (lớn nhất trong lịch sử người Việt) qua khái niệm “thuyền
nhân” sau 4/1975, cho rằng nó có mấy lý do chính (trích nguyên văn):
1) Khó khăn kinh tế trong khi nhà
nước cần ngoại tệ; người ra đi chính thức và bán chính thức phải bỏ tiền và
vàng ra để mua chỗ;
2) Chiếm đoạt tài sản hầu triệt hạ tầng lớp tư sản và tiểu tư sản;
3) Loại bỏ thành phần xã hội chống đối hoặc không tin cậy được như trường hợp Hoa kiều chiếm gần 10% thành phần vượt biên;
4) Gây áp lực chính trị với khối ASEAN;
5) Chấp nhận một việc đã rồi vì không thể kiểm soát được hết 1.200 km duyên hải;
6) Gây áp lực với Hoa Kỳ để buộc Hoa Kỳ thực thi lời hứa viện trợ tái thiết thời hậu chiến như ghi trong Điều 21 của Hiệp định Paris 1973;
7) Gia tăng lượng hàng hóa và hiện kim số người Việt ở hải ngoại gửi về cho thân nhân trong nước.
2) Chiếm đoạt tài sản hầu triệt hạ tầng lớp tư sản và tiểu tư sản;
3) Loại bỏ thành phần xã hội chống đối hoặc không tin cậy được như trường hợp Hoa kiều chiếm gần 10% thành phần vượt biên;
4) Gây áp lực chính trị với khối ASEAN;
5) Chấp nhận một việc đã rồi vì không thể kiểm soát được hết 1.200 km duyên hải;
6) Gây áp lực với Hoa Kỳ để buộc Hoa Kỳ thực thi lời hứa viện trợ tái thiết thời hậu chiến như ghi trong Điều 21 của Hiệp định Paris 1973;
7) Gia tăng lượng hàng hóa và hiện kim số người Việt ở hải ngoại gửi về cho thân nhân trong nước.
Với tình hình hiện nay, chúng ta
có thể thêm vào vô số lý do để vượt biên, mà trong đó thiếu tự do về thân thể
và tư tưởng; cơ chế chính trị lỗi thời và khó khăn về phát triển tài năng, kinh
tế là nổi bật nhất.
Trong một vài năm qua, đã có những
nghệ sĩ, nhà văn rời khỏi Việt Nam là do bất đồng chính kiến: đạo diễn Song
Chi, nhà văn Trần Khải Thanh Thủy…; riêng nhà văn trẻ Nguyễn Thị Thúy Quỳnh
(quen gọi Chả Sất) đã ôm con nhỏ trốn qua Thái Lan, xin tị nạn chính trị là một
trường hợp vượt biên công khai.
Tất cả những tình huống trên đây
tôi xin gọi là vượt biên trực tiếp (kiểu cũ), bởi ở Việt Nam đang thịnh hành
nhiều kiểu mới hơn - tạm gọi là vượt biên gián tiếp.
Chuyện phần lớn con em, gia quyến
của giới lãnh đạo chóp bu Việt Nam có đến 2-3 quốc tịch, tiền nằm trong vài chục
ngân hàng lớn nhỏ ở nước ngoài, nếu không phải tìm cách vượt biên gián tiếp thì
gọi là gì?
Đơn cử một trường hợp nho nhỏ như
Cục Điện ảnh, khi làm thất thoát (cách gọi khác của tham ô) hơn 2 triệu USD,
thì lập tức kế toán chuồn ra nước ngoài, nghe nói ở đó luôn, không về nữa, vì
đã có sẵn quốc tịch (?). Đây cũng chỉ là một biểu hiện của vượt biên gián tiếp.
Rõ ràng họ đã có chuẩn bị từ trước.
Lớn hơn một chút, vụ Nguyễn Thanh
Phượng (con gái TT Nguyễn Tấn Dũng) cùng nhóm Nguyễn Đăng Quang, Hồ Hùng Anh
(Ngân hàng Techcombank) mua thành công mỏ Núi Pháo (tỉnh Thái Nguyên) với số tiền
bao nhiêu chưa công bố chính thức, nhưng Thanh Phượng được trả công chính thức
đến 150 triệu USD.
Sau đó Đăng Quang, Hùng Anh đã bán sang tay Núi Pháo cho nước
ngoài, giá bao nhiêu chưa rõ, nhưng thu ngay tiền mặt đến 450 triệu USD, nghĩa
là lời 300 triệu USD. Số tiền thực tế bán Núi Pháo chẳng có lợi gì cho dân cho
nước, mà tài nguyên quốc gia cũng không còn, bởi họ dùng tiền này để mua nợ cứu
Vinashin - một doanh nghiệp nhà nước đại phá sản và phá hoại. Nhìn cảnh dân
tình đang biểu tình chống đối quanh Núi Pháo, mới biết hành động của nhóm này
không tiêu biểu cho siêu vượt biên, thì nên gọi là gì? Bởi dù họ ở ngay Việt
Nam, nhưng lại ngấm ngầm đưa hết quyền lợi ra nước ngoài, đó cũng là cách vượt
biên gián tiếp.
Một trong những cuộc vượt biên
gián tiếp khổng lồ mà chưa ai đề cập trực tiếp đến khái niệm này, đó là nạn chảy
máu chất xám. Nền giáo dục giáo điều và bệnh thành tích chẳng mấy thành công
trong việc đào tạo nhân lực, vậy mà ai có chút tài năng thì đều phải tìm cách định
cư nước ngoài, hoặc ít lắm cũng làm cho công ty nước ngoài, thì không phải vượt
biên gián tiếp là còn gì?
Ngay các ông bà hiệu trưởng, ông
Bộ trưởng Bộ Giáo dục cũng luôn tự hào mình đang có nhiều sinh viên học sinh du
học, mà thực chất là đang tự nhận mình quá yếu kém, chẳng dạy ra hồn nên bọn trẻ
mới phải đi. Mà sự yếu kém này còn lộ rõ khi lớp trẻ ra học nước ngoài xong, những
bạn học giỏi, đa phần không muốn về nước nữa, vì họ đã có cơ sở so sánh. Những
trường hợp tiêu biểu như nhà vật lý hạt nhân Nguyễn Đình Đăng, nhà nông học
Nguyễn Quốc Vọng, nhà toán học Ngô Bảo Châu (những người định cư ở nước ngoài
có làm việc trong nước), chỉ cần nói đến lương thôi, thì đủ biết việc họ chọn
nước ngoài để làm việc là đương nhiên (dù bên cạnh đó, VN còn 1001 lý do bất cập
khác nữa). Những trường hợp như vừa kể thì không phải vượt biên gián tiếp, nên
gọi là gì? Đúng hơn, họ bị dồn vào thế phải “siêu vượt biên”, dù trong lời ăn
tiếng nói của họ (thông qua các bài viết trên blog, website) thì đủ thấy VN vẫn
luôn ở trong tim. Trong trường hợp này, vượt biên là giúp Việt Nam.
Phần lớn các gia đình trung lưu,
trí thức, nhà giàu… cho con cháu họ học trường quốc tế ngay từ nhỏ (đây là điều
tốt và quyền chọn lựa riêng, cần được tôn trọng), nếu nhìn từ vĩ mô, không khỏi
rơi nước mắt. Ai cũng biết tính cách và bản sắc gốc được định hình từ trước năm
15 tuổi, vậy mà ở cái tuổi này, học sinh đã phải chia sẻ mình để hòa đồng trong
môi trường chung của văn hóa giao tiếp quốc tế (vốn bề mặt), đến khi trưởng
thành, con người họ thực sự chẳng là Việt Nam, mà cũng chẳng phải là một dân tộc
nào khác. Cái này phải gọi là vượt biên văn hóa, càng đau đớn hơn nữa.
Người Việt vốn sợ biển
Trong chuyện cổ tích về đánh đuổi
quỷ chiếm đất, cái bóng áo cà sa ra đến bờ biển thì dừng lại, quỷ đi đâu mặc kệ.
Biểu tượng này một phần nói lên tính nhân từ, hòa hiếu, một phần cho thấy sự kì
thị và ghét biển, nên quỷ phải đến từ biển và về với biển.
Ngay cả chuyện cổ tích về Mai An
Tiêm cũng thế, tội nặng là bị đày ra đảo hoang, nghĩa là ra biển, xem như hết đất
sống. Sau này các nhà tù “nặng đô” cũng phải ở ngoài đảo, như tù Côn Đảo chẳng
hạn, nghĩa là vẫn duy trì suy nghĩ: cho ra biển là xong đời.
Cái tính sợ biển này “lây” sang cả
người Chăm, dù hồi xưa họ vốn thông thạo trên biển, từng dùng thuyền đánh ra tới
Thăng Long. Sau sự kiện Huyền Trân Công Chúa, khi chiếm được đất, việc đầu tiên
mà Đại Việt làm là cấm người Chăm đi biển vĩnh viễn, đến ngày nay thì rõ ràng họ
đã mất truyền thống đi biển của mình.
Ngay cả sau này ứng xử với Trung
Quốc trên biển, cũng cho thấy người Việt còn sợ biển, chưa muốn hiểu nhiều về
biển.
Thế mà, khi bị o ép đến đường
cùng, người Việt lại vượt biên, mà thực chất là vượt biển, là thuyền nhân. Phải
nhìn thuyền nhân như dũng sĩ văn hóa và tâm linh, khi họ dám vượt qua nỗi sợ biển
đã ăn sâu vào tiềm thức của mình.
Cho nên, xin đừng nhìn khoảng 100
người Việt vượt biển trong tháng 6 (mà bị bắt) là con số nhỏ, mà hãy nhìn đó
như là một biểu hiện của căng thẳng cực độ. Ông bà ta nói rất hay, “nước chảy
ào ào không hao bằng mội”, cái mội nước (100 thuyền nhân thời đại mới) đang là
phát pháo khởi đầu cho một đớn đau mới: cuộc đại vượt biên sắp diễn ra. Bởi phần
đông đã thấy đất nước này đang lâm vào khủng hoảng trầm trọng, khó bề sửa đổi.
Nguồn: VietTuSaigon Blog
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét