Tài liệu
tham khảo đặc biệt
Thông
tấn xã Việt Nam
Tổng thống Nga Vladimir Putin (trái) và Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào |
Từ 23 đến 25/1 tại Matxcơva diễn ra Hội nghị song phương hàng năm
về các vấn đề chiến lược và an ninh giữa Trung Quốc và Nga. Đây là phiên họp lần
thứ năm kể từ năm 2005 đến nay. Theo đánh giá của chuyên gia Jean-Paul Yacine của
tạp chí “Tin Trung Hoa”, triển vọng tình hình từ cuối những năm 1980 cho thấy mối
quan hệ song phương không ngừng được cải thiện.
Việc xích lại gần nhau
giữa Nga và Trung Quốc tiếp tục diễn ra vào năm 2001 với việc ký Hiệp ước hữu
nghị và hợp tác được tuyên truyền rầm rộ rồi vào năm 2005 với việc thiết lập hợp
tác chiến lược. Trong một số mối quan hệ quốc tế, thuật ngữ “chiến lược” đôi
khi được sử dụng không đúng chỗ, nhưng đối với mối quan hệ Nga-Trung, thuật ngữ
đó hoàn toàn thích hợp.
Hiệp ước năm 2001 bao gồm nhiều vấn đề có tầm quan trọng cốt tử, từ
cung ứng khí đốt và dầu mỏ cho Trung Quốc đến hợp tác giữa hai nước chống mối
đe dọa khủng bố ở Trung Á hay bán vũ khí và chuyển giao công nghệ cho Quân giải
phóng nhân dân Trung Hoa. Trong các lĩnh vực này, hoạt động phối hợp chống
chính sách sức mạnh và bá quyền của Mỹ chiếm một vị trí quan trọng.
Khía cạnh “chống Mỹ” trong việc xích lại gần nhau giữa Nga và
Trung Quốc trước đây được mở rộng rất nhiều dưới thời Giang Trạch Dân trong suốt
nhiệm kỳ của ông. Bắt đầu từ năm 1992, Trung Quốc cùng Nga tố cáo hành động của
NATO – và các chiến dịch đặc biệt của tổ chức quân sự này – ở vùng Bancăng và
Đông Âu trước đây (căn cứ quân sự của Mỹ ở Rumani và Bungari), tại Ucraina,
Grudia và ở những vùng cận kề phương Tây thuộc Liên Xô, rồi ở Trung Á. Rõ ràng,
Nga và Trung Quốc không phải không có lý khi cùng cho rằng chiến lược của Mỹ là
“loại bỏ ảnh hướng của Nga khỏi đường biên giới lịch sử của nước này và kiềm chế
Trung Quốc”.
Ngoài những lý do đồng thuận chiến lược giữa Nga và Trung Quốc nói
trên, còn có thêm việc hai nước thường xuyên dè chừng với lập trường của các nước
phương Tây về vấn đề hạt nhân Iran và nghi ngờ các kế hoạch liên quan đến
lá chắn tên lửa của Mỹ ở châu Á và châu Âu.
Đó là bối cảnh dẫn đến các cuộc tập trận chung Nga-Trung, bắt đầu
từ năm 1999 (với một số thành phần thuộc Hạm đội Thái Bình Dương của Nga và Hạm
đội Đông Hải của Trung Quốc) và lên tới đỉnh cao từ năm 2005 với cuộc tập trận
hỗn hợp quốc tế trên không và trên bộ đầu tiên với quy mô lớn chưa từng thấy diễn
ra trên lãnh thổ Trung Quốc.
Với nhiều cái cớ khác nhau và các tên gọi mập mờ, tất cả các cuộc
tập trận tiếp theo đều nhằm mục đích cân bằng hoạt động quân sự của Mỹ ở Đông
Á, tại các vùng ngoại biên thuộc Liên Xô và ở Trung Á. Một số cuộc tập trận
khác cũng diễn ra hàng năm sau đó, ở biển Nhật Bản, vùng Xibêri, Mãn Châu hay
Trung Á. Đồng thời, Nga bán vũ khí cho Trung Quốc, bắt đầu từ năm 1989 và thúc
đẩy mạnh hơn khi Trung Quốc bị phương Tây cấm vận, cung cấp cho quân đội nước
này các trang thiết bị chính đế nhanh chóng hiện đại hóa (550-600 máy bay chiến
đấu hiện đại SU-27 và SU- 30MKK, trực thăng chống ngầm Kamov, tên lửa phòng
không S-300, tàu ngầm lớp Kilo, hai tàu khu trục Sovremenny trang bị tên lửa chống
tàu…).
Vấn đề là mối quan hệ Nga-Trung không còn cố hữu hay xơ cứng vì lý
do tư tưởng như trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Tuy không tin tưởng lẫn nhau
như nói ở trên, song Nga nhận thấy sức nặng ngày càng tăng của Trung Quốc trong
các vấn đề của mình nên vẫn giữ mối quan hệ với phương Tây và Liên minh châu
Âu. Chẳng hạn, Nga bán 67% tổng lượng khí đốt xuất khẩu của mình cho Liên minh
châu Âu. Song song với cuộc đối thoại chiến lược với Trung Quốc, Nga tiến hành
các cuộc đối thoại chiến lược khác với NATO và Mỹ, về an ninh châu Âu và phòng
thủ tên lửa. Cho dù gặp khó khăn, song các cuộc đối thoại này không phải vì thế
mà không trở thành đối trọng với việc xích lại gần Trung Quốc và, ít nhất, cũng
tạo cho Nga có thêm khả năng xoay xở.
Nếu như Nga và Trung Quốc có nhiều điểm đồng về chính trị, chuyên
gia các vấn đề quốc tế Jean-Paul Yacine nhận xét hai nước lại khá cách xa nhau
về kinh tế do lợi ích không đồng nhất. Khi các nhà lãnh đạo Nga và Trung Quốc gặp
nhau, mọi thứ dường như đều trôi chảy: hợp tác được cho là đang phát triển sâu
rộng, hai bên thống nhất về các vấn đề quốc tế lớn (Libi, Xyri) và vấn đề nhân
quyền không ảnh hưởng tới trao đổi thương mại… Trung Quốc và Nga ký nhiều hợp đồng
kinh tế trị giá 7 tỷ USD, song vẫn không có tiến triển đáng kể nào trong việc
Nga bán khí đốt từ Xibêri với khối lượng lớn cho Trung Quốc.
Trao đổi thương mại hai chiều, cho dù tăng gấp 10 lần từ năm 2001
đến nay, song vẫn chỉ ở mức khiêm tốn (từ 60 đến 70 tỷ USD). Hai nước muốn nói
gì thì nói trong thông cáo chính thức, song trao đổi chỉ diễn ra một chiều với
cung ứng khí đốt, dầu mỏ và trang thiết bị quân sự là chủ yếu, trong khi Nga rất
dè chừng về trang thiết bị quân sự vì không tin Trung Quốc. Kể cả khi được đa dạng
hóa, trao đổi vẫn chỉ xoay quanh lĩnh vực năng lượng. Tháng 9/2010, Trung Quốc
cho Nga vay 6 tỷ USD để đổi lấy việc nước này bán than cho mình trong 25 năm.
Trong chuyến thăm Trung Quốc cuối tháng 9/2010, Tổng thống Dmitry Medvedev hứa
sẽ xây hai nhà máy điện hạt nhân ở vùng Thượng Hải, còn Trung Quốc sẽ xây một
nhà máy điện ở vùng Yoroslavl.
Nhưng cốt lõi trong quan hệ song phương vẫn là việc ngày 2/1, đưa
vào sử dụng đường ống dẫn dầu đầu tiên nối Đông Xibêri với vùng Đông Bắc Trung
Quốc, có khả năng vận chuyển 15.000 tấn/năm. Chi phí cho dự án này lên tới 25 tỷ
USD và được tài trợ một phần bằng vốn vay của Trung Quốc. Trái lại, hai nước không
nhất trí về giá khí đốt được vận chuyển bằng một đường ống đang được xây dựng dự
kiến chạy từ Tây Xibêri qua dãy Altai tới vùng Tân Cương, trị giá 16 tỷ USD và
có thể vận chuyển 30 tỷ mét khối/năm.
Triển vọng xuất khẩu hàng công nghiệp Nga sang Trung Quốc vấp phải
trở ngại do bộ máy công nghiệp quá cổ lỗ và sự cạnh tranh của Trung Quốc, trong
khi món nợ của các tổ hợp Nhà nước lớn, hậu quả của các chiến dịch quốc hữu hóa
từ thời Putin, là một điểm yếu trước sức mạnh tài chính của Trung Quốc. Quỹ Nhà
nước Trung Quốc đã tỏ ý muốn mua lại toàn bộ hay một phần trong số 10 tỷ USD cổ
phiếu được bán ra trong khuôn khổ chương trình tư nhân hóa được Bộ trưởng Tài
chính Alexei Kudrin quyết định vào năm 2011.
Tại Nga, từ lâu nhiều chuyên gia cảnh báo tình trạng mất cân đối
dân số giữa vùng Xibêri và vùng Mãn Châu ngay bên cạnh (chỉ có 8 triệu người
Nga sống ở vùng giữa hồ Baikal và Thái Bình Dương, so với 200 triệu người Trung
Quốc ở vùng Đông Bắc), trong khi sự đồng thuận giữa Nga và Trung Quốc ở vùng
Trung Á bị đe dọa bởi các cuộc chiến tranh giành ảnh hưởng và cạnh tranh trong
khai thác nguồn năng lượng. Trung Quốc muốn đa dạng hóa nguồn cung ứng năng lượng
nên phát triển ở đây một mạng lưới đường sắt và đường ống dẫn khí đốt ngày càng
dày đặc.
Đúng là hai nước cùng có tâm lý nghi ngại đối với Mỹ, song phải thấy
rằng đối với Nga cũng như Trung Quốc, Mỹ vẫn là tiêu điểm trong mối quan hệ chiến
lược của họ. Một phần ba các câu trả lời của Đới Bỉnh Quốc cho các nhà báo
Trung Quốc và Nga hỏi về nội dung cuộc đối thoại chiến lược Nga-Trung, nói đến
mối quan hệ giữa một bên là Nga và Trung Quốc với bên kia là Mỹ.
Có xích lại gần
nhau không?
Vladimir Putin đã trở lại với ngôi vị số một ở Nga. Tác động địa
chính trị của việc này đối với Bắc Kinh là như thế nào? Theo ông Emmanuel
Lincot, Giám đốc Bộ phận nghiên cứu Trung Quốc đương đại thuộc Viện Thiên chúa
giáo Paris (Pháp), Vladimir Putin trở lại là một tin tốt lành đối với Trung Quốc.
Theo quan điểm của Bắc Kinh, điều này sẽ giúp mối quan hệ song phương trường tồn
và phối hợp hành động giữa hai cường quốc sẽ tiếp tục ổn định.
Phân tích trên tạp chí “Phát thanh”, ông Emmanuel Lincot lưu ý lập
trường của Nga và Trung Quốc không phải lúc nào cũng thống nhất. Năm 1960, với
Liên bang Xôviết, người ta đã thấy xảy ra ly khai, rồi căng thẳng ở biên giới
dưới thời các Tổng thống Gorbachev và Yeltsin. Sau khi Nga công nhận Ápkhadia
sau cuộc khủng hoảng Grudia, Bắc Kinh hoàn toàn không bày tỏ lập trường về vấn
đề này.
Trước khi trở thành đối tác chiến lược, Nga và Trung Quốc trải qua
một thời kỳ căng thẳng trong nửa sau thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Các cuộc cãi vã
giữa hai nước chủ yếu liên quan đến xung đột lãnh thổ, thực sự chấm dứt trước
khi Liên Xô tan vỡ, khi hai nước ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác vào năm 1990.
Từ đó trở đi, Trung Quốc và Nga duy trì mối quan hệ vừa vụ lợi vừa thực dụng về
phương diện chiến lược, cần nói rằng hai thực thể đó có một số điểm chung vì vấn
đề người Duy Ngô Nhĩ cũng có thể so sánh được với vấn đề Chesnia. Nga cũng như
Trung Quốc muốn giải quyết vấn đề của mình trong nội bộ mà các cường quốc bên
ngoài không được can thiệp vào.
Đặc biệt, những năm gần đây được đánh dấu bằng việc cải thiện có
tính chất Lịch sử mối quan hệ Nga-Trung vào năm 1989, tiếp đó là việc thành lập
vào năm 1996 Nhóm Thượng Hải (đến năm 2001 trở thành Tổ chức hợp tác Thượng Hải
– SCO) bao trùm không gian giầu dầu mỏ ở Trung Á và cũng là nơi nổ ra căng thẳng
chính trị triền miên, với hoạt động của các trào lưu Hồi giáo cực đoan và các mạng
lưới buôn bán ma túy.
Mối quan hệ giữa hai nước phụ thuộc vào lợi ích của mình cũng như
vào những lần xích lại gần nhau theo tình thế. Tướng de Gaulle có nói: “Một Nhà
nước không có bạn mà chỉ có lợi ích.” Vậy hai nước có lợi ích chung gì?
Theo chuyên gia Emmanuel Lincot, cả Trung Quốc và Nga đều chống lại
sự bá quyền của Mỹ và có cùng đường lối chống chính sách can thiệp của phương
Tây. Bằng chứng là lập trường giống nhau của Nga và Trung Quốc trong các vấn đề
như Trung Á hay Ápganixtan và hai nước này ủng hộ nhau về các vấn đề này. Hai
cường quốc này muốn phòng ngừa mọi hình thức can thiệp của các cường quốc
phương Tây khác vào không gian của mình, như đã từng xảy ra trong các cuộc khủng
hoảng Libi và Xyri. Sau khi Nga và Trung Quốc cùng phủ quyết nghị quyết của
Liên hợp quốc về Xyri, cộng đồng quốc tế đặt câu hỏi liệu bước đi trái chiều
này có phải là do lợi ích chiến lược chung giữa hai nước không? Theo cách nhìn
của phương Tây, lập trường đó hoàn toàn lôgích dưới ánh sáng của lợi ích chiến
lược chung giữa Nga và Trung Quốc.
Các cuộc tập trận chung được tổ chức thường kỳ giữa hai nước liệu
có phải là câu trả lời trực tiếp và thẳng thừng đối với các cuộc tập trận chung
giữa Mỹ và nhiều nước khác láng giềng của Trung Quốc, như Hàn Quốc và Việt Nam,
không? Chuyên gia Emmanuel Lincot, đồng thời là Tổng biên tập tạp chí “Thế giới
Trung Hoa”, cho rằng không phải như vậy, Các cuộc tập trận này được hoạch định
từ trước. Chắc chắn là trước chính sách của Mỹ ở châu Á, người ta có thể nói đến
một hình thức giáng trả, nhưng ông nghĩ rằng đó là hành động ngoại giao đúng
hơn là một mối đe dọa thực sự. Đó cũng là cách để nhắc lại rằng Trung Quốc muốn
xác lập không gian ngoại vi của mình, đặc biệt là ở Đông Bắc Á, xung quanh bán
đảo Triều Tiên. Cũng có thể coi những sự kiện đang làm. rung chuyển thế giới là
dư âm cuối cùng của Chiến tranh Lạnh.
Trong phần lớn các vấn đề quốc tế, Nga và Trung Quốc từ nhiều năm
nay thống nhất với nhau để bảo vệ khái niệm không can thiệp vào công việc nội bộ
của một nước khác. Tình hình đó là do bản chất chủ quyền của hai nước và lịch sử
gần đây của hai nước.
Trong khi Nga chịu ảnh hưởng của việc Liên bang Xôviết tan vỡ năm
1991, Trung Quốc năm 1999 phải chịu cảnh Đại sứ quán của mình tại Bêôgrát (Nam
Tư cũ) bị lực lượng NATO không kích. Cuộc xâm lược Irắc năm 2003 của Mỹ rốt cuộc
thuyết phục giới lãnh đạo hai nước về sự cần thiết phải tạo thành một khối để
chống lại tất cả những gì có thể được xem là mưu đồ can thiệp của phương Tây
vào một nước thứ ba, nhằm ngăn ngừa kiểu can thiệp đó chống lại lợi ích của
chính hai nước. Lá phiếu phủ quyết đối với vấn đề Xyri là do Trung Quốc và Nga
cần phải phủ nhận chính sách can thiệp của NATO, đồng thời cũng do tốc độ cuộc
can thiệp quân sự vào Libi khiến Nga và Trung Quốc trở tay không kịp.
Nhưng chuyên gia Nikolas Jucha khẳng định mối quan hệ giữa hai nước
không phải lúc nào cũng nồng ấm. Có nên tin cặp Nga-Trung đang tạo ra một liên
minh có khả năng đối trọng với ảnh hưởng của các nước phương Tây không? Theo
nhà Trung Quốc học Jean-Luc Domenach thuộc CERI-Sciences Po (Pháp), có thể là
không, như việc Nga bán 68 tỷ mét khối khí đốt trong 30 năm cho Trung Quốc, được
ký trong chuyến thăm cuối năm 2011 của Putin, đã cho thấy. Được lên kế hoạch
vào năm 2009 hợp đồng khổng lồ này vẫn chưa đi đến kết quả nào do thiếu sự tin
tưởng lẫn nhau giữa hai nước.
Nga nhìn nhận những sự việc làm rung chuyển Trung Quốc trong thời
gian gần đây như thế nào? Vụ luật sư mù Trần Quang Thành dĩ nhiên không có lợi
cho ngành ngoại giao của cả Mỹ lẫn Trung Quốc, nhưng không gây hậu quả nào đối
với mối quan hệ Nga-Trung, về vụ Bạc Hy Lai hãy còn quá sớm để nói như vậy.
Hơn nữa, việc Nga mới đây bắt được một gián điệp Trung Quốc chỉ
vài ngày trước khi Putin đến thăm Trung Quốc cho thấy vẫn còn tình trạng nghi
ngại lẫn nhau mặc dù mối quan hệ song phương bề ngoài có vẻ tuyệt vời. Đối với
chuyên gia Jean-Luc Domenach, điều rất rõ ràng là hai nước từ lâu vẫn dò xét lẫn
nhau.
Tình trạng thiếu tin tưởng đó là hạn chế của mối quan hệ giữa Nga
và Trung Quốc. Trong cuộc thương lượng tại Liên hợp quốc về vấn đề Libi rồi
Xyri; nhiều nhà quan sát nghĩ Trung Quốc và Nga hợp sức với nhau để chống lại
các nước khác. Cả hai nước đều khai thác nhau nhằm tăng cường tác động trước
các đối tác khác quan trọng hơn, chẳng hạn như Mỹ.
Cho dù không bắt buộc phải là những người bạn tốt nhất trên đời,
song Nga và Trung Quốc có nhiều điểm chung: một lịch sử cộng sản trong thời
gian gần đây, không chấp nhận can thiệp và quyết tâm hạn chế những “nguyên tắc
lớn” về phương diện quốc tế mà các nước phương Tây đưa ra. Như vậy hai nước có
cái để thống nhất về nhiều vấn đề địa chiến lược, nhưng lại không có thứ để bảo
đảm có được tình đoàn kết vững bền./.
http://anhbasam.wordpress.com/2012/06/08/1069-ve-moi-quan-he-nga-trung/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét