Khatraphuong
Tôi
bảo em gái: Hay nhỉ cây mít nhà mình bây giờ đã có quả, nó nói: Ông bảo em bao
giờ tao chết chúng mày mới trồng được mít.
Khi
tôi còn nhỏ bố tôi hay chọn giống mít tốt về trồng, ông tôi nói có trồng cũng
không có quả đâu. Mà thực mít bố tôi trồng tốt um mà không có quả rồi từ từ chết.
Nay
tôi đã thành ông nội rồi nghe em nói tôi sực nhớ lại: Khi nhỏ đêm ngủ với ông
thường được ông kể cho nhiều chuyện như: Tam Quốc, Tây du, chuyện cổ tích ..
khi kể chuyện ma lắm lúc sợ chui vào nách ông. Một đêm trăng thu vằng vặc tôi hỏi
ông sao mít nhà mình không có quả?
Ông kể năm 1920 ông đổi được mảnh vườn của
bác Cả liền nhà có nhiều cây mít cổ thụ trồng từ những năm đầu thế kỷ XIX, do
thời ấy lúa hiếm mà mít khó bán để chuyển thành gạo nên ông tôi phá để trồng
lúa, chỉ để lại một cây gốc to gần hai người ôm bên cạnh đống rơm. Năm 1932 bố
tôi 6 tuổi lấy diêm đốt chơi thấy cháy thích quá reo hò như thắng trận không ngờ
gió lớn bén cháy đống rơm trời hanh lửa ngút trời thiêu cả cây mít hơn trăm tuổi.
Thương con ông không đánh mà còn ôm vỗ về cho đỡ sợ.
Ông
tôi thương tiếc cây mít nhiều đêm khó ngủ vì đây là cây mít của cụ tổ họ Nguyễn
Công trồng khi đến Trà Phương lập nghiệp, cây to khỏe chống chọi biết bao cơn
bão giông của vùng ven biển nhiệt đới mà bị lửa rơm thiêu. Sau đó thường xuyên
ông chọn giống mít tốt để trồng vào nơi ấy nhưng không có quả. Ông nói với tôi
quả báo đấy cháu!
Tôi
giật mình thế mà Ông tôi đã đi xa tròn 30 năm lòng tôi biết bao thương nhớ
ông. Sinh thời tay không ông mua được hơn 3 mẫu ruộng, mấy con trâu mong
mua lại hàng trăm mẫu ruộng của tổ tiên xưa, nhưng thời đại đã xóa đi. Nhiều kẻ
lấn đất nhưng đến nay vẫn còn 1.337 m2 để cho hậu duệ. Mỗi vuông đất ông tôi
quý như vàng nào trồng mía, trồng chuối… trồng tre vây rào để phòng trộm, ao
sâu thì nuôi cá, trồng rau. Bốn mùa không thiếu thứ gì, nên trong cơn bĩ cực của
những năm giữa cuối thế kỷ XX nhà tôi không ai bị chết đói. Ông nói có đất tất
có cơm, có vàng có khi vẫn chết đói, năm 1945 năm lời này là thực.
Mùa
Hè năm Nhâm Thìn trở về quê ven đường ngát hương thơm lúa chín vàng, trời xanh
cao vời vợi, lòng nao nao nghĩ về đất về nước, nghĩ về những kẻ lợi dụng cơ chế
để lấy đất của nông dân, có chỗ xưa vào lúc này ngát hương thơm lúa chín vàng,
nay cỏ mọc bời bời, trời xanh cao vời vợi, nông dân được chút tiền đền, từ sinh
đến giờ chưa thấy đống tiền to vậy nhiều gia đình tan nát vì không biết sử dụng
tiền, dẫn đến giai thì nghiện gái buôn chồng người, nghĩ về Vinashin, Vinalines,
Vi nào nữa những đồng tiền thuế, tiền đền đi đâu? Cho nước mình hùng cường?
Đừng
để các chú, cháu công an phải dùng dùi cui với người dân lấy thân mình giữ đất,
có thể người dân ấy mới hôm nao còn là người lính chống ngoại xâm, có thể trong
mình còn đầy vết đạn của cuộc chiến nào? Có thể họ chưa hẳn đúng với “quy định
hiện hành”, có thể họ chưa biết hết nội dung của thông tư, chỉ thị…nhưng từng
vuông đất đã thấm mồ hôi và có thể cả máu của họ, trên đó có những ngọn muống
cũng thấm tình như cây mít của nội tôi khi xưa, nên vì đất có thể bùng nổ những
điều mà các Viện chưa nghiên ra.
Chúng ta cần phải thấy sớm hậu quả: nếu 30% dân số chiếm
giữ 70% tài sản của toàn xã hội?
TS. Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng CIEM: Đã đến lúc
phải nhìn thẳng vào sự thật! Trong khi hàng triệu người dân phải tính từng đồng
bạc, từng mớ rau, quả trứng thì sự phung phí một cách vô lối ở các tập đoàn như
thế rõ ràng là một tội lỗi. Tội lỗi đối với nền kinh tế. Tội lỗi đối với người
dân. Đây chính là lúc Nhà nước phải nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá một cách cầu
thị và dẫu có đắng cay, cũng phải làm để có thể gầy dựng lại từ đống đổ nát
này. Trước mắt, cần phải xem xét toàn diện khung pháp lý về quản trị đối với
các tập đoàn nhà nước và trách nhiệm của các cơ quan quản lý. Câu hỏi đặt ra là
còn những “tên tuổi” nào chưa bị phát hiện.
http://khatraphuong.blogspot.com/2012/06/tinh-yeu-cua-con-nguoi-voi-at-voi-cay.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét