Tác giả: Roberto Tofani
Người dịch: Dương Lệ Chi
Tăng trưởng kinh tế ấn tượng, việc mở cửa cho dân chủ ở Miến Điện
và cuộc khủng hoảng tài chính kéo dài ở phương Tây đã khôi phục sự quan tâm của
Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu (EU) ở Đông Nam Á sau một thập kỷ gần như bỏ bê.
Nhưng liệu Washington và Brussels sẽ hy sinh sự vận động về dân chủ và nhân quyền
lâu dài cho các lợi ích kinh tế và chiến lược mới?
Tầm quan trọng về địa chính trị gia tăng ở biển Đông, nơi Trung Quốc
đang tranh giành và các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ gây tranh cãi với các
nước láng giềng Đông Nam Á, đã giúp cho Mỹ tuyên bố “sự chuyển hướng” chiến lược
tới châu Á. Nhiều nhà phân tích xem sự thay đổi chiến lược đó như là một nỗ lực
để cân bằng ảnh hưởng ngày càng gia của Trung Quốc trong khu vực, bằng cách
tranh thủ và bảo vệ các nước láng giềng Đông Nam Á.
Mỹ và châu Âu có lịch sử trừng phạt hoặc chỉ trích mạnh mẽ các nước
như Miến Điện và Việt Nam về hồ sơ nhân quyền tệ hại và thiếu tôn trọng quyền tự
do dân sự cơ bản. Cả hai đều áp dụng phương pháp tiếp cận kép để khuyến khích
thay đổi kinh tế và chính trị. Trong khi các tổ chức tài chính quốc tế cung cấp
sự giúp đỡ để kích thích tăng trưởng theo hướng thị trường, chính phủ ở các nước
phương Tây đã đưa việc trợ giúp nhân đạo và phát triển để đổi lấy cải cách dân
chủ đã được hứa hẹn.
Cách tiếp cận đó chỉ có hiệu lực một phần. Các nước Đông Nam Á thể
hiện sự quan tâm rất ít trong việc cải thiện các quyền cơ bản, và thay vào đó,
họ tập trung vào việc phát triển kinh tế thông qua các mối quan hệ thương mại
và đầu tư với phương Tây. Gần đây, Trung Quốc đã giúp nhiều nước trong khu vực
đa dạng hóa nền kinh tế của họ mà không đòi hỏi phải cải cách. Khi sự cân bằng
kinh tế đó thay đổi, Mỹ và Liên minh Chấu Âu dường như làm nhẹ đi những lời kêu
gọi của họ về các quyền phổ quát và gia tăng việc theo đuổi các thị trường mới.
Thật ra mà nói thì những lời kêu gọi đó vẫn còn. Lấy Việt Nam làm
ví dụ. Hồi tháng hai, ông Kurt Campbell, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ, phụ trách khu
vực Đông Á – Thái Bình Dương, đã nói với những người tiếp đón ông ở Việt Nam rằng,
để nâng mối quan hệ song phương đã được cải thiện lên cấp độ mới, “sẽ đòi hỏi
Việt Nam phải có một số bước tiến quan trọng nhằm giải quyết cả hai vấn đề: các
trường hợp cá nhân gây quan ngại và các mối lo ngại về nhân quyền, cũng như các
thách thức mang tính hệ thống liên quan đến tự do ngôn luận và tự do lập hội“.
Trong khi đó, các nhà chức trách Hoa Kỳ và Việt Nam đang hướng về
Hiệp ước Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) mới – một hiệp ước tự do thương mại
đa phương, nhằm mục đích tự do thương mại và đầu tư hơn nữa vào khu vực châu
Á-Thái Bình Dương. Hiệp định Thương mại Song phương năm 2001 là cột mốc quan trọng
hướng tới bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ, và đã giúp thúc đẩy thương mại
song phương tăng từ 3 tỷ đô la trong năm 2002 lên đến 18,6 tỷ đô la trong năm
2010, giúp Việt Nam trở thành đối tác thương mại lớn thứ hai của Hoa Kỳ, sau
Trung Quốc.
Trong khi Bộ Ngoại giao Mỹ vẫn coi Việt Nam là “một chính phủ độc
tài”, được thấy rõ nhất trong chiến dịch đàn áp các nhà hoạt động và các
blogger đang diễn ra, nhưng quan hệ thương mại không bị ảnh hưởng. Washington hành
động một cách thận trọng về vấn đề bán các loại vũ khí tinh vi, một phần là do
quan tâm đến nhân quyền, nhưng phần lớn là tránh một cuộc xung đột trực tiếp với
Trung Quốc.
EU là đối tác thương mại lớn thứ ba của Việt Nam và một trong những
nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất. Năm ngoái, các nhà đầu tư châu Âu cam kết số tiền
khoảng 1,8 tỷ đô la đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), chiếm hơn 12% tổng số tiền
FDI mà các nước đã cam kết đầu tư vào Việt Nam, theo các nguồn tin từ Việt Nam.
Để thúc đẩy hơn nữa về vấn đề nhân quyền, tuyên bố gần đây của EU
nhắm đến là “ký một Hiệp định Đối tác Hợp tác mới giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu
trong tương lai gần”, bà Catherine Ashton, Đại diện Tối cao của EU
về chính sách an ninh và ngoại giao, và là Phó Chủ tịch Ủy ban [châu Âu], đã
nói hồi cuối tháng 4.
Từ khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) hồi năm 2007, và
với sự gia tăng số lượng đầu tư rất lớn từ phương Tây, Việt Nam không còn được
xem như một quốc gia cần quan tâm đặc biệt (CPC) ở Washington hay Brussels, mặc
dù họ đang và liên tục lạm dụng các quyền con người.
Thay đổi sự ưu tiên
Có các mối lo ngại rằng lợi ích chiến lược và kinh tế đang lấn áp
trong quan hệ với Miến Điện, một nước mà cả Mỹ lẫn EU vẫn duy trì [lệnh trừng
phạt], nhưng gần đây đã tạm ngưng các biện pháp trừng phạt kinh tế đã được áp đặt
lên đất nước này để chống lại chế độ quân sự. EU và Mỹ dường như đang tham gia
vào cuộc chạy đua về đầu tư để theo kịp các nước châu Á, gồm Trung Quốc, Ấn Độ
và Thái Lan, duy trì các mối quan hệ bình thường trong nhiều thập kỷ dưới sự
cai trị của chế độ quân sự.
Ông Thein Sein, Tổng thống Miến Điện, là một trong những nhà cải
cách chính trị, gồm cả việc phóng thích hàng trăm tù nhân chính trị, nới lỏng hạn
chế phương tiện truyền thông và cho phép phe đối lập, do bà Aung San Suu Kyi
lãnh đạo, tham gia quốc hội, đã nhanh chóng nhận được sự khen thưởng của
Washington và Brussels. Mỹ và EU đã lần lượt nới lỏng và tạm ngưng các lệnh trừng
phạt của họ và cả Mỹ lẫn EU đang có kế hoạch gia tăng viện trợ phát triển cho đất
nước này.
“Chúng tôi nói với các doanh nghiệp Mỹ đầu tư vào Miến Điện và hãy làm
điều có trách nhiệm“, Ngoại trưởng Hillary Clinton cho biết sau khi
công bố lùi lại các biện pháp trừng phạt, sau các cuộc đàm phán với ông Wunna
Maung Lwin, Ngoại trưởng Miến, ở Washington trong tháng này.
Những người Miến lưu vong, các cựu tù chính trị và các nhóm nhân
quyền quốc tế từ lâu đã đấu tranh chống lại việc gỡ bỏ các lệnh trừng phạt mà
không có tiến bộ nào có thể nhìn thấy được về tình hình nhân quyền trên đất nước
này. Họ lưu ý, mặc dù có những phóng thích gần đây, hàng trăm tù nhân chính trị
vẫn còn đang bị giam giữ.
Trong khi đó, có những báo cáo đáng tin cậy về sự lạm dụng của
quân đội phổ biến rộng rãi và hiện đang diễn ra, chống lại các thường dân trong
cuộc xung đột của chính phủ với phiến quân Kachin ở khu vực miền bắc Miến Điện.
Và báo chí địa phương vẫn bị kiểm duyệt, chống lại việc đưa tin chỉ trích chế độ
cũ hoặc chế độ hiện tại.
Mỹ và EU đã quyết định để bỏ qua những sự lạm dụng này và tập
trung vào các vấn đề kinh tế. Nhắc lại lời kêu gọi của bà Clinton đối với các
công ty Mỹ đầu tư vào Miến Điện, Đại Sứ quán Anh ở Yangon gần đây đã cho đăng tải
“hướng dẫn làm ăn ở Miến Điện” nhằm hỗ trợ các nhà đầu tư tiềm năng trong nước.
Trớ trêu thay, Ủy ban Liên chính phủ ASEAN về Nhân quyền (AICHR) sẽ
tổ chức cuộc họp kế tiếp theo tại Yangon vào đầu tháng 6. Với những hạn chế của
Miến Điện về các tổ chức xã hội dân sự và vẫn tiếp tục cho các nhà hoạt động và
các nhà báo vào danh sách đen, rất ít có hy vọng về sự tiến bộ trong bản Tuyên
ngôn Nhân quyền ASEAN, một lộ trình đã được đề xuất xây dựng các quyền con người
trong khu vực. Miến Điện sẽ làm chủ tịch 10 nước thành viên khối ASEAN lần đầu
tiên vào năm 2014.
Trong quá khứ, Mỹ và EU ngăn cản Miến Điện làm thành viên của nhóm
trong khu vực và thông qua các biện pháp trừng phạt của họ, sẽ tẩy chay bất cứ
cuộc họp nào được tổ chức trên đất nước này. Bây giờ với sự thay đổi gần đây về
các ưu tiên ngoại giao, Washington và Brussels dường như ngày càng sẵn sàng bỏ
qua các mối quan tâm về nhân quyền và dân chủ để theo đuổi các lợi ích thương mại
và địa chiến lược.
Trong khi kế hoạch có thể nhằm mục đích chống lại sự ảnh hưởng của
Trung Quốc, nhìn xem vấn đề lạm dụng các quyền [con người] và việc tán dương
các biểu hiện cải cách dân chủ theo cách khác, Mỹ và EU đang ủng hộ cách tiếp cận
của Bắc Kinh một cách hiệu quả.
Tác giả: Ông
Roberto Tofani là một nhà báo tự do và là nhà phân tích các vấn đề Đông Nam Á. Ông cũng
là đồng sáng lập PlanetNext (www.planetnext.net) - hiệp hội các nhà báo cam kết
khái niệm “thông tin cho sự thay đổi”.
Nguồn: Asia Times
Bản tiếng Việt
© Ba Sàm 2012
http://anhbasam.wordpress.com/2012/06/01/lam-an-quan-trong-hon-nhan-quyen-o-dong-nam-a/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét