Lê Xuân Quang
(Kỉ niệm ngày giỗ thứ 23 của Thi
hào Chế Lan Viên (19.6.1989 – 19.6.2012), 92 năm ngày sinh (20.10.1920 –
20.10.2012)
Trong một hội thảo văn thơ Viêt
Nam đương đại cách nay gần 50 năm, một nhà thơ nổi tiếng của giòng Thi Ca Tiền
Chiến đã nói: Thi sĩ Việt Nam đã, đang rơi vào tình trạng’’Hiện tượng Một Bài’’
(HTMB). Ông nêu dẫn chứng về khá nhiều tác gỉa nổi tiếng thời Tiền Chiến (1930
– 1945), tham gia Kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954), sau khi trở về, cố lắm
họ mới có được’’Một bài’’ có thể gọi là’’hay’’, sau đó... không có thi phẩm nào
vượt qua được ’’Một bài ’’ kia. Nhà thơ này nói khá đúng, ngay đến tận bây giờ
nhận xét đóvẫn chưa mất tính thời sự xác thực nếu không muốn nói : Trên mặt bằng
thi ca của đất nước đã thống nhất 37 năm, rất ít thấy xuất hiên HTMB .
Thế nhưng - Đối với Chế Lan Viên
có thể xem là trường hợp ngoại lệ. Ông nổi tiếng ngay từ khi công bố
Tập thơ Điêu Tàn khi mới 17 tuổi (1937). Tiếc rằng trong suốt cuộc Kháng chiến
chống Pháp – có thể do đang tìm cách thich nghi với môi trường, tích lũy, thu
lượm, chắt lọc’’đãi cát lấy vàng’’ ông không phát huy được khả năng để có những’’Điêu
Tàn’’ tiếpp theo. Phải đợi đến đầu những năm 60 của thế kỉ 20 và nhất là từ
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ bước ra, các sáng tác của ông mới đủ độ chín để
lên đỉnh vinh quang. Có thể xem đây là một hiện tương nổi trội trong nền thi ca
VN đương đại.
Chế Lan Viên tên thật Phan Ngọc
Hoan, người quê Bình Định, học trường Quy Nhơn (1). Ông đến với thi đàn Việt
Nam bằng tập thơ có chủ đề đặc biệt, cấu trúc độc đáo, ngôn từ diễn đạt sâu
săc, ấn tượng dữ dội khiến dư luận đương thợ ngỡ ngàng đến khâm phục. Vào lúc nổi
danh, tác gỉa chỉ mới là chàng trai trẻ mà theo quan niệm chung của các tiền bối:
Đang tuổi ’’Ăn chưa no, lo chưa tới’’.
Lẽ ra, chàng Phan đang mài đũng
quần ở trường lớp chuyên nghiệp nào đó, hoặc it ra, cần được vũ trang lí luận của
một ngành chuyên khảo về lịch sử, phải có thời gian sống, chiêm nghiệm thế thái
nhân tình, ’’đào bới’’... ’’quằn quại’’ ,’’vật vã’’ với hiện thực khách quan, mới
viết được những vần thơ làm người đọc ’’Sốc’’ trước đau thương của cả một thời
đại, một dân tộc, một quốc gia hoàn toàn xa lạ với Phan Ngọc Hoan - giờ chỉ còn
đổ nát, hoang phế. Trái lại, qua đống đổ nát, Chế Lan Viên đã nhập vào quá khứ,
bứt phá rồi đường hoàng, lừng lững bước lên đài vinh quang của thi đàn Việt Nam
ở cuối thập niên 30 của thế kỉ 20 !
Đọc Điêu Tàn, người đọc ngạc
nhiên đến chóang ngợp khi CLV đã dụng dậy những hồn ma, những hình
hài phiêu phưởng mà sống động như những con người thật, đi lại, vật vờ xung
quanh đống đổ nát trên mảnh đất hoang tàn,cất tiếng than khóc cho số phận nghiệt
ngả của bản thân và dân tộc mình. Chế Lan Viên đã nhập hồn, hóa cốt vào dân tộc
Hời để trỡ thành biểu tượng rực rỡ trong giòng chảy Thơ Mới .
Chúng ta thử chọn, đọc một bài
tiêu biểu trong Điêu Tàn:
TRÊN ĐƯỜNG VỀ
Một ngày biếc thị thành ta rời bỏ
Quay về xem non nước giống dân Hời
..............................................................
..............................................................
(2 giòng này bị kiểm
duyệt Pháp thời đó cắt bỏ)
Đây những tháp gầy mòn vì mong đợi
Những đền xưa đổ nát dưới thời
gian,
Những sông vắng lê mình trong
bóng tối,
Những tượng Chàm lở lói rỉ rên
than.
Đây, những cảnh ngàn sâu cây lả
ngọn.
Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi;
Những rừng thẳm bóng chiều lan hỗn
độn,
Lừng hương đưa, rộn rã tiếng từ
quy !
Đây, chiến địa nơi đôi bên giao
trận,
Muôn cô hồn tử sĩ hét gầm vang,
Mắu Chàm cuộn tháng ngày niềm oán
hận,
Xương Chàm luôn rào rạt nỗi căm hờn.
Đây, những cảnh thái bình trong
Chiêm Quốc,
Những cô thôn vàng nhuộm nắng chiều
tươi,
Những Chiêm nữ nhẹ nhàng quay lại
ấp,
Áo hồng nâu phủ phất xõa lời vui.
Đây điện các huy hoàng trong ánh
nắng,
Những đền đài tuyệt mỹ dưới trời
xanh
Đây, chiến thuyền nằm trơ trên
sông lặng,
Bày voi thiêng trầm mặc dạo bên
thành.
Đây, trong ánh ngọc lưu ly huyền ảo,
Vua quan Chiêm say đắm thịt da
ngà,
Những Chiêm nữ mơ màng trong tiếng
sáo,
Cùng nhịp nhàng, uyển chuyển uốn
mình hoa.
Những cảnh ấy trên đường về ta đã
gặp
Tháng ngày qua ám ảnh mãi không
thôi,
Và từ đấy lòng ta luôn tràn ngập,
Nỗi buồn thương, nhớ tiếc giống
dân Hời !
(Điêu Tàn - 1937)
Tập thơ ra đời được 5 năm,(1937 –
1942) ngay cả Hoài Thanh nhà biên khảo có uy tín trên văn đàn Việt Nam thời đó
cũng có cảm tình rồi viết những giòng xúc động đầy bí hiểm: ‘’…Vong linh đau khổ
của nòi giống Chàm đã nhập vào Chế Lan Viên, cho nên dầu không phải người họ Chế,
CLV vẫn là một nhà thơ Chiêm Thành…’’(2).
Nhiều người sau này cũng theo
Hoài Thanh phát triển, nhận định về Điêu Tàn nhưng có phần lạc đề : ‘’… tập
thơ (Điêu Tàn) miêu tả nỗi cô đơn của một người không tìm thấy sự hòa hợp với
cuộc đời…’’ (3).
Liệu đây có phải là ý tưởng của
CLV khi viết Điêu Tàn – không? Cần phải giải mã ĐT dưới góc nhìn tổng quát
nhưng biện chứng trong bối cảnh xác tín của lịch sử nước nhà.
Nếu chúng ta đọc ĐT theo cách: Mở
rộng và suy tư sâu lắng, nhận ra: Nghĩa đen của ĐT đúng là tác gỉa hướng dẫn
người đọc đi vào thế giới mộng ảo và cảm nhận qúa khứ bi thương của một dân tộc
đã đi vào quá khứ... Nhưng trấn tĩnh lại, tỉnh táo hơn, ta chợt giật mình, nhận
ra, ở phía sau - nghĩa bóng của Điêu Tàn: Tác gỉa không định nói về một biến cố
của dân tộc Hời, mà hướng suy nghĩ người đọc vào sự khái quát của sự diệt vong
nhằm gửi bức thông điệp cho người đọc đương đại: Dân tộc, đất nươc - khi bị chiếm
đất – sẽ phải nhận lấy kết cục bi thảm – Diệt vong !
Từ những vần thơ minh họa sinh động
của cây bút tài hoa khiến trí tưởng tượng người đọc bùng phát, liên tưởng tới
hoàn cảnh đất nước Việt bị ngoại bang xâm chiếm ở nhiều cột mốc thời gian của
nhiều thế kỷ đã qua. Nòi giống Việt đã bao phen chèo chống , vùng vẫy thoát ra
khỏi cảnh nô lệ, bị thực hiện cưỡng bức nhằm đồng hóa trên các lĩnh vực : Văn
hóa, phong tục, nếp sống kể cả đồng hóa chủng tộc (sát Phu - hiếp Phụ) (…) . Có
lúc từng đoàn bộ lạc bồng bế nhau xuôi các giòng sông, chạy xuống phương Nam.
Tuy tộc Việt vẫn bị dân Hán tiếp tục truy đuổi, ép đồng hóa… nhưng mục đích của
kẻ thù đã thất bại bởi sức sống mãnh liệt của nười Việt. Dù trong hoàn cảnh nào
họ vẫn kiên cường chống lại, giữ vẹn toàn bản sắc của mình nhưng vẫn tỉnh táo,
tiếp thu cái hay, cái tốt của họ, biến thành của mình, tiếp tục tồn tại, phát
triển đi lên…
Trong hoàn cảnh một mất một còn,
tổ tiên ta vẫn kiên cường, anh dũng hun đúc chí quật cường truyền lại cho con
chắu đời đời.Nằm ở giưa hai miền Bắc – Nam, khi kẻ thù phương Bắc o ép lăm le
tiêu diệt, thì phía Nam -Vương quốc Chiêm Thành – áp sát không ngừng quấy rối,
xâm chiếm đe dọa sự tồn tại của mình. Không còn đường nào khác, thế là cuộc trường
chinh: Dẹp, mở rộng phía Nam để yên một mặt, chú tâm chỉ chống một kẻ thù mạnh
hơn ở phía kia (thay vì chống với cả hai). Quan dân nhà Nguyễn phải
thực hiện quy luật: Cùng tắc biến (Biến tắc thông). Và, thảm cảnh đã xẩy ra cho
những kẻ tham lam nhưng không đánh gía đúng đối thủ, vẫn tiến hành cuộc phiêu
lưu quân sự để nhận lấy sự diệt vong!…
Chế Lan Viên mươn bối cảnh – Như
Nguyễn Du viêt Truyện Kiều - viết Điêu Tàn, chỉ là cách ‘’mượn xác - hoàn hồn’’
- lấy Xưa nói Nay. Tác gỉa đã đánh thức cả giòng tộc bằng một thông điệp: Hãy
nhìn gương tấy liếp đây - Hoặc là biến vào hư không như dân Hời, nếu để kẻ thù
xâm chiếm đất nước. Còn không thì hãy dũng cảm bảo vệ giang sơn để khỏi rơi và
tay giặc ngoại xâm !
Xin bạn đọc hãy chú ý 2 câu thơ -
thứ 3 và 4 - ở khổ thơ thứ nhất - Trên Đường Về. Tôi rất muốn biết: Hai câu thơ
đó là thế nào, mà kiểm duyệt Pháp thời năm 1937 cắt bỏ?
Chúng ta biết: Từ năm 1936, Mặt
trận Bình dân lên nắm chính quyền ở Pháp. Họ đã ‘’thí cho’’ các nước thuộc địa
một số cải cách để dân nô lệ đỡ ngột ngạt hòng xoa dịu sự phản kháng. Thế mà 2
câu thơ của Chế Lan Viên vẫn bị xóa, chứng tỏ nội dung của nó rất’’dữ dội’’ khiến
chính phủ thực dân Pháp không chịu được. Chắc chắn 2 câu thơ ‘’phạm húy’’… động
chạm đến chính sách cai trị hà khắc của chúng .
Nếu trước đây việc làm này của
dân thuộcc địa sẽ bị đàn áp. Còn bây giờ, muốn đánh bóng cho bộ mặt Dân Chủ, bộ
máy kiểm duyệt đành cắt bỏ 2 câu thơ kia rồi cho bài thơ vẫn được phổ biến. Thế
nhưng vì mất 2 câu , tứ thơ đã chuyển hướng theo ý nghĩa khác… Chúng ta cùng nhớ
lai: Thời kì đầu Thế kỉ 20 đến cuối những năm ba mươi, Thực dân Pháp đàn áp các
cuộc nổi dậy, chém giết các chiến sĩ cách mạng tràn lan qua các vụ Hà Thành Đầu
Độc, Ngày Tang Yên Bái, Cần Vương, Đề Thám…Có thể tinh thần phản kháng đó nằm ở
hai câu thơ mà thực dân Pháp nhận ra nên cắt bỏ. Từ suy nghĩ phân tích trên, có
thể đi đến nhận định: Chế Lan Viên viết Điêu Tàn là có chủ ý: Khơi dậy trong
lòng dân tộc tinh thần chống ngoại xâm. Bảo vệ độc lập chủ quyền của tổ quốc.
Khung cảnh, và con người trong Điêu Tàn chỉ la vật tượng trưng mang ẩn ý để cổ
vũ toàn dân tộc chống quân xâm lược.
Chúng ta phải phục hiện sự thực,
cho dù nhận định quan niệm sai lệch
Về chủ đề cúa Điêu Tàn đã tồn tai
70 năm. Tuy hơi muộn nhưng muộn vẫn còn hơn không. Không thể để các thế hệ sau
tiếp tục hiểu sai ý tác gỉa Điêu Tàn (…) làm biến dạng, dẫn tơi vô tình hạ thấp
ý nghĩa của tác phẩm và uy tín của tác giả.
Chế Lan Viên là người yêu tổ quốc,
đất nước mình tha thiết, mãnh liệt như bao người Việt Nam khác. Nhưng ông diễn
giải tình yêu đó bằng những vần thơ nóng bỏng và trữ tình. Ông đã làm nổi bật
những gía trị, nối tiếp sau Điêu Tàn dù chỉ với 4 câu thơ trong bài Tiếng Hát
Con Tầu đã đủ đưa ông lên vị trí thi hào của dân tộc:
‘’…
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây
phủ
Nơi nào qua mà chẳng thấy yêu
thương
Nơi ta ở - chỉ là đất ở
Nơi ta đi - đất bỗng hóa tâm hồn…’’
Nhà Văn - Nghệ - Sĩ có thể có nhiều
cách thể hiện ca ngợi tổ quốc mình bằng sáng tạo tác phẩm nghệ thuật đủ thể loại,
dài, ngắn. Chế Lan Viên chỉ cần 4 câu thơ đã nói thay cõi lòng của nhiều người.
Tổ quốc - Dân tộc là Đất - Nước. Đọc 4 câu thơ lên, mọi người cảm nhận
ngay bởi mấy từ Đất bỗng hóa tâm hồn. Vì là tâm hồn nên Đất trở thành thiêng
liêng, thân yêu. Đất - chính là Mẹ hiền, là Tổ quốc Việt Nam !
Phải nghe tiếp những câu thơ hào
hùng trong bài: Tổ quốc có bao giờ đẹp thế này chăng? xâu chuỗi lại mới thấy
rõ chủ ý của Chế Lan Viên - từ Điêu Tàn, ngược từng cột mốc lịch sử của hôm qua
rồi quay trở về hôm nay: Kêu gọi cả Dân tộc đứng lên Bảo Vệ Tổ Quốc khỏi họa
xâm lăng từ phương Bắc:
Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn
năm
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng
?
Chưa đâu !
Và ngay cả trong những ngày đẹp
nhất !
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh
giặc
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa
thành văn,
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc,
Hưng Đạo diệt quân Nguyên
trên
sóng Bạch Đằng...
…
Những anh hùng dân tộc - đứng đầu
các cuộc chống xâm lăng của phương Bắc được nhà thơ ghi lại trong từng câu thơ
khiến người đọc cảm động, trỗi dậy khí thế hiên ngang nhờ oai linh của tổ tiên…
Chê Lan Viên đã để lại cho thi
đàn Việt Nam nhiều bài thơ gía trị, cùng những tác phẩm nhiều thể loại khác.
Nhưng ông cũng là người duy nhất trong làng thơ Việt Nam: Dù đã đi vào cõi vĩnh
hằng, dù lúc còn sống các thi phẩm gía trị chưa được công bố . Giờ, khi tác gỉa
đã trở về với cát bụi, các thi phẩm tuyệt vời mới được người đời biết đến…
Người đọc Việt Nam đã yêu qúy Chế
Lan Viên – Phan Ngọc Hoan qua Điêu Tàn, nay – khi đọc những di cảo của ông phải
cúi đầu, ngà mũ kính chào Thi sĩ trứ danh của nền Văn Chương Việt Nam hiện đại.
Các thi phẩm nổi tiếng công bố muộn
màng của Chế Lan Viên - in trong Di Cảo Chế Lan Viên - chính là 3 bài thơ: Ai
Tôi - Bánh Vẽ - Trừ Đi!
AI TÔI ?
Mậu Thân, 2000 người xuống đồng bằng
Chỉ một đêm còn sống sót có 30
Ai chịu trách nhiệm về cái chết
2000 người đó ?
Tôi !
Tôi - người viết những câu thơ cổ
võ
Ca tụng người không tiếc mạng
mình
trong
mọi lúc xung phong
Một trong 30 người khi ở mặt trận
về
sau mười năm
Ngồi bán quần trên đường nuôi đàn
con nhỏ
Quán treo huân chương đầy mọi chỗ
Chả Huân chương nào nuôi được người
lính cũ !
Ai chịu trách nhiệm vậy ?
Lại chính tôi!
Người lính cần một câu thơ giải
đáp về đời
Tôi ú ớ!
Người ấy nhắc những câu thơ tôi
làm
Mà tôi xấu hổ!
Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay
giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ
Giữa buồn tủi chua cay
Tôi có thể cười!...
1987. (Di cảo của Chế Lan Viên)
BÁNH VẼ!
Chưa cần cầm lên nếm, anh đã biết
là bánh vẽ
Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn
cùng bè bạn
Cầm lên nhấm nháp
Chả là nếu anh từ chối
Chúng sẽ bảo anh phá rối
Đêm vui!
Bảo anh không còn có khả năng
nhai
Và đưa anh từ nay ra khỏi tiệc...
Thế thì còn đâu dịp nhai thứ thiệt
?
Rốt cuộc anh lại ngồi vào bàn
Như không có gì sảy ra hết
Và những người khác thấy anh ngồi,
Họ cũng ngồi thôi
Nhai ngồm ngoàm...
(Rút trong tập Văn học
và Dư luận,
NXB Trẻ TP HCM - Di cảo
của Chế Lan Viên)
TRỪ ĐI!
Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ
Có phải tôi viết đâu ? Một nửa
Cái cần viết vào thơ, tôi đã giết
đi rồi!
Giết một tiếng đau, giết một tiếng
cười,
Giết một kỷ niệm, giết một ước
mơ.
Tôi giết cái cánh sắp bay...
trước
khi tôi viết
Tôi giết bão táp ngoài khơi
cho
được yên ổn trên bờ
Và giết luôn mặt trời lên trên biển.
Giết mưa và giết luôn cả cỏ
mọc
trong mưa luôn thể
Cho nên câu thơ tôi gầy còm như
thế
Tôi viết bằng xương thôi,
không
có thịt của mình.
Và thơ này rơi đến tay anh
Anh bảo đấy là tôi?
Không phải!
Nhưng cũng chính là tôi - người
có lỗi!
Đã giết đi bao nhiêu cái
Có khi không có tội như mình !
(Rút trong tập Di cảo (4) của
Chế Lan Viên)
Berlin 10.6.2012
LXQ
http://badamxoe.blogspot.com/2012/06/che-lan-vien-ai-chiu-trach-nhiem-vay.html
----------------------------------------------------
(*) – Câu thơ lấy trong bài Ai –
Tôi.
1 - Thi nhân Việt Nam xuất bản
năm 1942. Theo Bách khoa toàn thư VN : Chế Lan Viên sinh ở Cam Lộ, Quảng Trị
(?)
2 - Thi Nhân VN trang 238 - 239
3 - Lời giới thiệu của Bách Khoa
Toàn Thư Việt Nam…
4 - Di Cảo được Hội nhà văn Việt
Nam tặng giải thưởng văn chương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét