Phan Thị Vàng Anh
Viết về người cha - Chế Lan Viên
Một
ngày của cha tôi bắt đầu vào lúc bốn giờ. Cha tôi dậy sớm để nấu cơm, nấu nước,
rồi sắp vào một cái khay con, một đôi đũa, một cái bát… xong hết mới gọi tôi dậy
ăn.
Cha đã để sẵn nước sôi trong nhà tắm, dắt sẵn xe đạp ra ngoài sân… Làm xong hết
những việc ấy, cha đi học bài.
Cha học cho đến lúc mẹ dậy. Học thơ, thơ từ cổ chí kim, của bất cứ ai, miễn
đáng gọi là thơ, học kịch, học văn, học văn chương và học cả những gì dường như
văn chương không bao giờ thèm đụng tới. Cho đến lúc gần bảy mươi, cha tôi vẫn
là một học trò ngoan, bất chấp tuổi già mà len lỏi vào bất cứ góc nào của khu
vườn văn hóa.
… Khoảng bảy rưỡi, cha, mẹ ăn sáng. Rồi cha tôi ngồi vào bàn, cái bàn mà tôi học
bây giờ, ngày ấy ít ai dám đến gần khi cha đang viết. Trên bàn đầy giấy và
sách, lâu lâu bình mực quên không đậy đổ một lần, khi ấy loạn cả nhà. Không
ngày nào cha không ngồi viết, cả khi gãy tay, bó bột, ngày trước, ngày sau đã
nguệch ngoạc viết bằng tay trái. Đôi lúc tôi thấy, nghề văn như một cái ách,
người ta lúc nào cũng áy náy lo âu, sợ mình chưa đọc đủ, chưa viết đủ, chưa viết
xong lại thấy bực bội như thể có điều gì oan trái trong lòng chưa nói ra hết được.
Và tôi nghĩ, có lẽ cha tôi chọn cho mình một cái ách nặng. Cha luôn luôn tất bật,
yêu hoa cỏ nhưng chưa bao giờ dám bỏ hàng giờ ra để ngồi uống trà thưởng hoa.
Cha sợ những quán cà phê, nhìn chúng như nhìn những nấm mồ chôn thì giờ. Chỉ những
đêm rằm, vườn nhà tôi đầy trăng, cha bảo: “Tắt đèn! Ra ngoài hè ngồi xem!”. Chị
em tôi theo ra, ngồi khen trăng được vài phút, cha lại quay sang bàn chuyện văn
chương với mẹ, rồi tranh luận, có khi cãi cọ, quên cả trăng!
Cứ vậy, đầu óc của cha tôi không lúc nào thảnh thơi, đôi lúc tôi nghĩ, cha đã già
rồi, đã có một vị trí ít ai dám mơ tới trong văn học rồi, sao cha không nghỉ
ngơi một chút. Cha dạy chúng tôi: “Phải học, học không phải để vui, mà để không
ai giết được mình!”. Cha cũng muốn tôi học, tôi đã có gần một chục quyển vở
chép tay của cha, ở bìa ghi rõ: “sách dạy cho Vàng Anh”, cha muốn hàng ngày đều
có ít thì giờ để giảng cho tôi, nhưng tôi, vì đã không ý thức được những giờ học
ấy quý như thế nào, tôi đã trốn bằng đủ mọi cớ, khi ấy, tôi chỉ thích làm thơ
chứ không thích học thơ. Chỉ khi cha tôi vào nằm bệnh viện, tôi biết cha bệnh nặng,
khó mà qua khỏi, mỗi chiều, sau khi đi học về, tôi vào thăm, cha luôn để dành
cho tôi bánh kẹo hoặc một quả cam, và tôi dù mệt đến mấy cũng đề nghị cha giảng
bài, không tiếp thu được bao nhiêu, nhưng tôi muốn cha được an tâm. Ở bệnh viện,
cha tôi đã làm một phong bì to đựng các bài học của tôi, giờ đây chép thành giấy
rời, cuối mỗi bài đều ký: “Cha: Chế Lan Viên”, và ghi: “Chợ Rẫy ngày… tháng…
năm…” như đánh dấu từng chặng của một cuộc chạy đua tàn khốc.
… Thời khóa biểu của cha tôi cho một ngày thế nào cũng có giờ làm vườn. Thường
vào khoảng mười giờ, khi viết lách, đọc sách đã mệt. Ra vườn, cha tôi đắp đất,
làm cỏ như một nông dân, và cha tự hào về điều đó. Vườn nhà tôi rộng đủ để mọi
người “thí nghiệm” trồng cây này, cây nọ, kết quả là cây cối mọc lung tung. Một
cây dừa mọc trên mô đất cao, nước quanh năm không với tới, những cây mận, cây
cam tranh giành nắng, xúm xít cạnh nhau. Tuy vậy, tôi yêu khu vườn, bởi vì nó
là nơi thân thiết nhất của cha, mẹ tôi, bởi vì, ở đâu trong vườn cũng có dấu
tích của cha, những chậu phong lan cha tôi đem từ rừng về, một cây ổi cha trồng
riêng cho tôi gần giếng nước, bụi hương nhu bên bờ ao cha trồng cho cả nhà gội
đầu… Người ngoài ít ai biết rằng cha tôi lại có thể làm những việc li ti như vậy,
còn chúng tôi vì quá quen với những việc li ti ấy nên lại thường không biết cha
tôi có thể làm được những việc lớn như thế nào. Thỉnh thoảng, tôi đi theo cha đến
các hội nghị hoặc các lớp học cha giảng thơ văn. Ở đấy, người ta dành cho cha
ghế hàng đầu, rồi các cô, các chú đến chào, nhắc về vài bài viết, hay quyển
sách mới của cha, tôi nghe và lần nào cũng lặp lại cái ý nghĩ: “Tệ thật! Mình
chẳng biết gì về cha cả!”. Khi ấy, tôi theo cha chỉ để đi chơi, cũng không để ý
cha tôi giảng bài gì, phát biểu điều gì, chỉ để ý cha đã chải đầu chưa, cổ áo
đã bẻ xuống chưa, có quên kính không… Trong những chuyện này, cha nhất nhất
nghe tôi. Một lần khi tôi học lớp năm, theo cha xuống Cổ cò, người ta đón bằng
một bữa tiệc, cha tôi uống rượu, thỉnh thoảng hỏi tôi: “Mặt cha đỏ chưa?”. Tôi
bảo “Chưa!”, mấy phút sau lại nghiêm mặt bảo cha: “Đỏ rồi! Cha đừng uống nữa!”
Và cha tôi ngưng liền.
Cha tôi nóng tính, điều đó ai cũng nói. Ở nhà không ai dám đùa với cha, ngoài
chị Thắm. Chị là người duy nhất dám nhờ cha tôi dịch hộ bài học rồi ngang nhiên
ngủ gật ngay bên cạnh. Chị Thắm cũng là người duy nhất biết nhổ tóc sâu và lấy
ráy tai, và làm cũng tùy hứng, bất kể lúc đó cha tôi đang bận bịu đọc sách hay
học bài. Ra trường, chị đi thực tập một năm ở An Giang, lâu lâu mới về một lần,
thời gian đó, tóc cha tôi bạc hẳn. Tôi nhớ, khi chị đi được mấy ngày, một buổi
tối, người yêu chị đi thăm về, tả lại cho cha tôi nghe cái cảnh lạ nước lạ cái
của chị dưới quê, cha bảo: “tội nghiệp!” Rồi hai người sụt sịt khóc, khi ấy,
hai mẹ con tôi thấy cha thật là ủy mị!
Rồi cha tôi bệnh nặng, những tháng cuối cùng, cha chỉ nằm trong phòng, không
nói được, không biểu lộ tình cảm gì trên mặt, chỉ ngơ ngác nhìn trời qua cửa sổ.
Vậy mà, theo thói quen, thấy tờ báo nào ở cạnh cha cũng cầm lên đọc, khi thấy mẹ
tôi cầm quyển sách nào đi ngang cha cũng nhìn cho được cái gáy sách, dù đã
không hiểu được gì nữa. Bạn của cha tôi đông lắm, họ đến thăm và ai cũng thấy rằng
ông Trời sao thật tàn bạo, bắt một con người thông minh như cha phải sống như một
đứa trẻ mới sinh. Tôi đi học về, vào giường ngồi chơi, nắm tay cha, gầy guộc,
và khóc, có lần, cha tỉnh ra, nhìn tôi cau mày và cũng khóc theo. Sau đó ít
ngày, cha mất.
Sau lễ hỏa táng, anh Định và tôi được giao nghi lễ cuối cùng là đem tro của cha
thả xuống sông. Tôi ngôi sau, ôm chặt cái túi còn ấm nóng. Đây là cha tôi, ngày
nào còn ôm tôi, đứa trẻ con ngủ gật trên xe; đây là thầy giáo tôi… giờ thu lại
trong hũ cốt và một bao tro. Chúng tôi ra sông Sài Gòn, khi tro được thả xuống,
tôi biết từ nay mình đã mồ côi cha, chỗ dựa lớn nhất đời tôi đã mất, và tôi sẽ
phải học, như cha dạy: “Học không phải để vui, mà để không ai giết được mình!”.
Học để thành người.
Phan thị Vàng Anh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét