Người
dịch: Băng Tâm
Đã qua đi 22 cái ngày 4/6 hàng năm, con trai tôi bị lưu đày thấm
thoát đã 23 năm trời.
Tôi biết ở Bắc Kinh có một Nhóm các bà mẹ Thiên An Môn, con của
họ đều đã chết. Là người mẹ, tôi từng thầm nghĩ, trộm nghĩ là so với họ, tôi vẫn
còn may mắn hơn, con tôi vẫn còn sống.
Tôi lắc đầu, bảo rằng tôi đang nhớ con mình.
Cứ thế, chúng tôi đã có cùng một chủ đề chung – đứa con. Đúng vậy,
con của chúng tôi đều đang bị lưu đày. Năm năm, 10 năm, 15 năm, 20 năm… …
Không hiểu bắt đầu từ bao giờ mà con và lưu đày đã có liên quan
với mọi người chúng tôi. Trước đó, lúc mới đầu, mặc dù sự kiện không bình thường
này khiến cho chúng tôi thấy may mắn và âu lo, may mắn vì con trai chạy trốn được
khỏi cuộc đàn áp, âu lo vì sự chia ly. Song từng người vẫn còn có thể sống một
cuộc sống bình thường của riêng mình, mà tình trạng này thì cứ tiếp tục từ năm
này qua năm khác. Một thứ tình cảm riêng tư phải xa cách đứa con đã biến thành
thứ tình cảm chung lúc nào không hay, may mắn và âu lo được thay thế bằng cảm
giác bị khủng bố, sự thật đứa con bị lưu đày dài ngày đem lại nỗi khổ đau vô
cùng vô tận.
Hơn 20 năm trước, chúng tôi đột nhiên phải đối mặt với sự chia
li chưa hề được chuẩn bị về tư tưởng, có những người mẹ lúc chia tay còn chỉ dự
định là xa nhau tạm thời, chỉ dặn dò vài ba câu rồi ôm nhau nói lời tạm biệt
trên sân ga, vẫn đầy lòng tin xuẩn ngốc của con người, cho là chỉ sau vài
tháng, hoặc nhiều nhất cũng chỉ sau vài năm là chắc chắn sẽ lại được gặp mặt.
Thế nhưng, chúng tôi phát hiện thấy mình đã bị rơi vào thế tuyệt vọng của sự xa
cách đứa con, không nơi nương tựa, không thể gặp lại.
Chúng tôi thường thông báo cho nhau về tình hình gần đây nhất của
con cái mình, đứa nào đã kết hôn sinh con, đứa nào đã có học vị. Người chồng là
chỗ dựa của chúng tôi, con cái là niềm hi vọng của chúng tôi, thế mà xem ra người
đàn ông lại thường mềm yếu, chẳng khác gì một vật cứng dễ vỡ vậy, không ít ông
bố đã không chờ đợi con mình, mà chuyện con mình quay về thì chẳng biết tới khi
nào. Các bà mẹ cho rằng, những tình trạng nguy cấp như nguy cơ bệnh, chết chóc…
còn có thể có ngoại lệ, kết quả là chẳng có biện pháp linh hoạt nào. Con đường
còn lại duy nhất là e-mail và điện thoại. Giữa những người thân xưa nay có mối
liên hệ với nhau bằng tâm linh, tình cảm và cốt nhục, hiện giờ thì chỉ có thể
làm ấm lại giấc mơ xưa bằng những dòng e-mail. Nhưng do thực tế là tất cả những
con chữ sử dụng được trong e-mail đã được mẹ và con dùng hết rất nhanh, nên
tình cảm bi thương từ nỗi chờ mong của chúng tôi trong suốt thời gian dài chỉ
gói gọn được trong mấy câu hỏi thăm lặp lại được trao đổi ngắn ngủi vội vàng,
chẳng hạn, “Mẹ khỏe, nhớ con. Chờ con.” … …
Có những người mẹ thế là liền đưa ra yêu cầu cho con mình: Con,
liệu có thể về được không. Nhưng rồi họ lại đã nhanh chóng hiểu được rằng làm
như vậy chẳng khác gì đẩy con vào miệng hùm, về là phải đầu hàng, mà con mình
không phải là kẻ thù, không phải là tội nhân, con không muốn thế, mẹ cũng không
muốn thế, từ nhỏ mẹ đã dạy con phải làm một con người ngay thẳng, thế là người
mẹ thà rằng chịu nỗi khổ của sự chia cách còn hơn.
Chúng tôi sẽ mang ảnh con ra, tấm ảnh hội tụ hết nỗi ưu tư của
mình, chúng tôi cũng sẽ ân hận, ân hận vì trước đây mình quá nghiêm khắc với
con, ân hận vì trước đây mình quấy rầy con quá nhiều. Sự chia cách lạnh lẽo,
triệt để, mù mịt tiền đồ này đã đẩy chúng tôi vào tình cảnh rối bời tâm trạng,
khiến cho chúng tôi trở thành những cái bóng suốt ngày chỉ biết ám ảnh với nỗi
chia ly như đã cách biệt hẳn mà không biết phải làm gì.
Chúng tôi thực đã phải mang nỗi đau song trùng: Đầu tiên là tưởng
tượng về nỗi đau mà con mình phải chịu đựng ở ngoài đó, tiếp đến là nỗi đau mà
bản thân phải gánh chịu. Chúng tôi an ủi nhau rằng các con ở ngoài đó được tự
do, chúng có được sự tự do mà chúng theo đuổi, chúng sẽ vui vẻ. Nghĩ đến con
cái đang tự do ở ngoài đó, chúng tôi chợt phát hiện ra rằng kẻ bị lưu đày chính
là chúng tôi, chúng tôi là những người mẹ bị lưu đày ở Bắc Kinh. Chúng tôi đã bị
chối bỏ trong những tháng ngày vô phương hướng và trong nỗi nhớ không có chút kết
quả nào, chẳng khác nào gì một bầy bóng ma lang thang. Chúng tôi bất lực chẳng
biết phải làm gì, chỉ đành dật dờ trong cái thành phố u ám này, ngày lại ngày đắm
chìm trong nỗi nhớ quặn lòng.
Cảm giác sống lưu vong tiêu biểu cho cảm nhận của mọi người, sự
trống rỗng luôn tồn tại trong thẳm sâu cõi lòng chúng tôi đích thực là một cảm
giác sống lưu vong, một tâm trạng rõ ràng và chính xác, một mũi tên kí ức âu
lo, một sự ảo tưởng hoang đường hết sức, thời gian thoảng trôi. Nhiều khi chúng
tôi thả mình vào trong tưởng tượng, hình dung mình đang chờ tiếng chuông cửa
con mình về hoặc tiếng chân leo cầu thang quen thuộc của con mình một cách sung
sướng.
Nhiều khi, cả dũng khí, ý chí lẫn lòng nhẫn nại của chúng tôi dường
như đều bị đổ sụp trong chốc lát, đổ sụp bất ngờ đến nỗi chúng tôi cảm thấy dường
như sẽ không còn gượng dậy nổi, không còn tính đếm đến ngày đoàn tụ, chúng tôi
đã trải nghiệm nỗi bi thảm của tất cả mọi tù nhân và những người bị đi đày, ở Bắc
Kinh, ở nhà, ở Tây Sơn. Chúng tôi sống cuộc sống giống như những người vì bị xử
lí bằng luật pháp hoặc sự trả thù của người đời mà phải ở sau chốn song sắt.
Trong tình trạng cô đơn đến cực điểm ấy, cuối cùng đã chẳng còn
ai trông đợi gì đến chuyện những người cầm quyền lưu đày con mình sẽ sửa sai vụ
“4.6”, chẳng còn ai trông đợi gì đến chuyện những người cầm quyền lưu đày các
bà mẹ cho chúng tôi được gặp lại con mình.
Có thể tôi nói vậy là quá thương tâm, nhưng hỏi còn có thể nói
gì được nữa đây?
Âm thanh những bài nhạc đỏ ở Tây Sơn đã bị cấm đoán mất một thời
gian, chúng tôi có đôi chút mất mát. Tôi biết, điều mọi người muốn gửi gắm
trong tiếng hát không phải là thứ tình cảm ca ngợi đảng cộng sản trong nhạc đỏ,
chúng tôi làm sao có nổi thứ tình cảm ấy? Tôi tin là những người hát cũng
vậy.
Nguồn: Peacehall.com
Bản tiếng Việt © Băng Tâm
2012
Bản tiếng Việt © Ba Sàm
2012
http://anhbasam.wordpress.com/2012/06/02/1053-bi-luu-day-o-bac-kinh/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét