Một
nhà máy sản xuất linh kiện
điện tử ở ngoại ô Hà Nội - Reuters |
Lãi
suất cao, chí phí sản xuất đắt đỏ, hàng tồn kho nhiều, những khó khăn chồng chất
lên nhau khiến hàng loạt công ty phá sản và nhiều công ty khác phải hoạt động cầm
chừng. Chính phủ đã dành ra 29 ngàn tỷ đồng để cứu các doanh nghiệp và đã đề ra
dự án tái cơ cấu nền kinh tế để thúc đẩy sản xuất. Thế nhưng đề án này đã gặp
nhiều chỉ trích và theo tiến sĩ Nguyễn Quang A, chính sách sai lầm về cơ bản đã
dẫn đến tình trạng khó khăn hiện nay của các doanh nghiệp.
Trong
báo cáo trình chính phủ vào tháng 3 vừa qua, Uỷ ban Giám sát tàì chính quốc gia
đã tỏ vẻ rất quan ngại đối với khó khăn của các doanh nghiệp, mà theo uỷ ban
này, nguyên nhân chủ yếu là khó tiếp cận nguồn vốn do lãi suất cao. Lãi suất
bình quân của Việt Nam cao hơn các nước trong khu vực khoảng 2-4 lần. Cùng với
lãi suất cao, sự thận trọng của các ngân hàng thương mại cũng khiến các doanh
nghiệp khó vay tiền. Khó khăn về sản xuất và bán hàng càng khiến cho tình hình
tài chính của các doanh nghiệp thêm tồi tệ.
Cộng
thêm vào đó là tình hình suy thoái chung của toàn thế giới, đặc biệt là tại
châu Âu, một trong những thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam. Thống kê
nữa đầu tháng 05/2012 cho thấy là kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may, một trong
những ngành xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam, đã tiếp tục giảm 24 triệu đôla so với
nữa cuối tháng 04/2012. Thống kê của Tổng cục Hải quan, nửa đầu tháng 5 cho thấy
kim ngạch xuất khẩu thủy sản giảm 45 triệu đôla. Trước đó, số liệu xuất khẩu thủy
sản tháng 4 cũng đã giảm 4,7% so với tháng trước.
Theo
các số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam, trong vòng 4 tháng đầu năm
2012, gần 18 ngàn doanh nghiệp đã phải ngưng hoạt động, trong đó có hơn 400
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tăng gấp 10 lần so với cùng kỳ năm
ngoái. Thật ra, đó chỉ mới là số liệu chính thức, còn trên thực tế, số doanh
nghiệp bị khai tử chắc là cao hơn rất nhiểu.
Những
doanh nghiệp còn sống thì cũng đang trong tình trạng rất khó khăn. Theo thống
kê của hãng tin Bloomberg News, đưa ra trong bản tin đề ngày
21/5, trong số 700 công ty niêm yết ở hai thị trường chứng khoán Sài Gòn và Hà
Nội, có đến 11% đã bị thua lỗ vào năm ngoái và 62% có lợi nhuận sụt giảm. Ngoài
ra, trong số 473 công ty đã báo cáo kết quả kinh doanh trong quý đầu năm nay,
có đến 14% công ty bị thua lỗ.
Hãng
tin Bloomberg News nêu lên trường hợp của Công ty Đầu tư bất động sản - may
thêu Việt Hưng, Hà Nội. Theo lời bà Lương Thị Kim Oanh, Tổng giám đốc công ty,
họ đã phải sa thải hơn phân nửa công nhân và đã phải bán giảm giá 50% một số mặt
hàng để nhanh chóng có tiền trả lương cho 70 công nhân còn lại. Bà Oanh cho biết
là năm ngoái, xuất khẩu hàng của Việt Hưng sang châu Âu và Trung Đông đã giảm
phân nửa và tình hình cho tới nay vẫn chưa cải thiện.
Trong
khi đó, công ty của bà nay không thể vay tiền từ ngân hàng đề mua nguyên liệu
và vì cần tiền để trả lương công nhân, cho nên bà Oanh đã phải vay tiền từ thị
trường tự do, với lãi suất cao hơn gấp ba lần lãi suất ngân hàng, tức là hơn
70% một năm. Gia đình bà và bản thân bà đã phải thế chấp toàn bộ các tài sản,
nhưng vẫn không đủ tiền để công ty tiếp tục hoạt động và nay Việt Hưng đang tuyệt
vọng chờ sự giúp đở của chính phủ.
Để
đối phó với tình hình này, vừa qua, chính phủ Hà Nội đã giảm 30% thuế thu nhập
cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hoãn 6 tháng việc trả thuế bán hàng. Thế
nhưng, theo nhận định của tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh Giám đốc nghiên cứu của
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, được hãng tin Bloomberg News trích dẫn,
giảm thuế và hoãn thuế cho các doanh nghiệp thì cũng giống như “đắp khăn uớt
lên trán một người đang bị sốt rất cao, chứ thuốc trị căn bệnh này vẫn chưa
có”.
Trong
buổi khai mạc kỳ họp Quốc hội ngày 21/5 vừa qua, phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc
đã nhìn nhận rằng với việc nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa,
gặp khó khăn, kinh tế Việt Nam đang có dấu hiệu suy thoái. Chưa biết có sẽ rơi
vào suy thoái hay không, nhưng điều chắc chắn là kinh tế Việt Nam đang tăng trưởng
chậm lại rất nhiều, thể hiện qua tỷ lệ lạm phát sụt giảm mạnh.
Theo
số liệu do Tổng cục Thống kê Việt Nam công bố ngày 24/5 vừa qua, chỉ số giá
tiêu dùng trong tháng 5 vừa qua tăng 8,34% so với cùng kỳ năm ngoái. Lạm phát ở
Việt Nam đã từng lên đến đỉnh cao 23% vào tháng 8 năm ngoái, nhưng việc lạm
phát nay xuống dưới 10% không có gì là đáng mừng, bởi vì đó là hậu quả của việc
lãi suất tăng cao và việc nhu cầu sụt giảm đối với hàng hoá và dịch vụ Việt
Nam.
Theo
các số liệu của Tổng cục thống kê, tăng trưởng kinh tế trong quý một chỉ đạt
4%, thấp nhất trong vòng nhiều năm qua. Theo dự báo của nhiều chuyên gia, tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm nay rất có thể sẽ là thấp nhất kể từ năm
2000. Một điều chắc chắc là Việt Nam sẽ không thể đạt được mục tiêu đã đề ra là
tăng trưởng từ 6 đến 6,5% năm 2012.
Trước
tình hình khó khăn của các doanh nghiệp và viễn cảnh suy thoái kinh tế, chính
phủ Hà Nội đã đề ra một đề án gọi là “tái cơ cấu kinh tế”. Thế nhưng trong cuộc
họp do Hội doanh nhân trẻ Việt Nam tổ chức ngày 17/5 vừa qua lấy ý kiến các
chuyên gia, hiệp hội, doanh nghiệp, lãnh đạo nhiều xí nghiệp cở nhỏ và cở vừa
đã cho rằng đề án nói trên “chỉ ra đúng thực trạng khó khăn, nhưng chưa giải
quyết được điều gì cụ thể”.
Trong
các buổi thảo luận vào tuần trước trong khuôn khổ kỳ họp Quốc hội, nhiều đại biểu
Quốc hội cũng đã cho rằng đề án tái cơ cấu kinh tế này quá sơ sài, chưa nêu được
giải pháp, cơ chế và nguồn lực để triển khai; nói chung là cần phải được làm lại.
Trong
buổi công bố báo cáo thường niên về kinh tế Việt Nam năm 2012 của Trung tâm
nghiên cứu kinh tế chính sách (VEPR), Đại học Kinh tế Hà Nội, ngày 24/05, tiến
sĩ Nguyễn Đức Thanh, giám đốc của trung tâm này, đã nhận định rằng, “bất ổn
vĩ mô dai dẳng bắt nguồn từ cấu trúc nội tại nền kinh tế. Mô hình tăng trưởng
phụ thuộc quá nhiều vào khu vực doanh nghiệp Nhà nước kém hiệu quả đã làm suy
giảm năng suất và hiệu quả chung của nền kinh tế. ». Theo ông, Việt
Nam cần “xem xét nghiêm túc mô hình kinh tế vừa qua và định hướng hiện nay”.
Về
phần tiến sĩ Nguyễn Quang A ở Hà Nội thì cho rằng những khó khăn hiện nay của
các doanh nghiệp và khó khăn của nền kinh tế nói chung là xuất phát từ chính
sách sai lầm, quá ưu đãi cho những doanh nghiệp Nhà nước, mà phần lớn làm ăn
thua lỗ, mà lại không quan tâm hỗ trợ cho khu vực tư nhân, nhất là cho các
doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong khi đây là khu vực hoạt động hiệu quả hơn rất
nhiều. Sau đây là phần phỏng vấn tiến sĩ Nguyễn Quang A.
RFI: Thưa tiến
sĩ Nguyễn Quang A, theo ông, những nguyên nhân nào khiến các doanh nghiệp Việt
Nam gặp khó khăn như hiện nay?
TS Nguyễn Quang A: Có vài
nguyên nhân cơ bản. Tình hình kinh tế toàn cầu nói chung có ảnh hưởng đến Việt
Nam, nhưng có lẽ nguyên nhân quan trọng nhất là chính sách kinh tế của khoảng
năm, sáu năm trở lại đây đã rất không tốt và đã làm trầm trọng thêm những bất ổn
kinh tế ở Việt Nam.
Lạm phát gia tăng rất nhiều,
làm cho lãi suất tăng lên.
Trong
bối cảnh trầm trọng ấy, rất nhiều doanh nghiệp lâm vào cảnh khó khăn. Số doanh
nghiệp hoạt động cầm chừng hoặc bị đóng cửa đã tăng lên một cách đột biến trong
thời gian vừa qua. Hiện tượng là như thế, nhưng tôi nghĩ nguyên nhân chính là
do chính sách của chính phủ đã không được tốt.
RFI: Cụ thể thì chính sách
đó đã không tốt ở những điểm gì?
TS Nguyễn Quang A: Ví dụ
như đã để lạm phát tăng rất cao. Ai cũng biết lạm phát là do chính sách của
chính phủ gây ra, chứ không phải tự nhiên nó đến. Ở Việt Nam người ta thường
nói rằng lạm phát này là do ảnh hưởng của kinh tế thế giới. Nếu như thế thì lạm
phát ở Singapore, ở Thái Lan, Trung Quốc, Philippines hay Malaysia cũng phải
cao chứ!
Thật sự không phải như vậy.
Lạm phát trong vài năm vừa qua ở Việt Nam là cao vào loại nhất thế giới và hiển
nhiên là cao nhất khu vực, thường là cao hơn gấp ba lần mức lạm phát bình thường
của các nước trong khu vực. Đó là do nội tại của nền kinh tế mà chủ yếu ở đây
là do chạy theo tăng trưởng, cho nên đã nới rộng chính sách tiền tệ, bơm nhiều
tiền vào nền kinh tế, sử dụng quá nhiều vốn.
Để đạt được tăng trưởng ở một
con số nhất định, thì phải bơm vốn ngày càng nhiều. Chính hoạt động không hiệu
quả của nền kinh tế đó, cộng với chính sách bơm nhiều tiền vào đó, đã làm cho lạm
phát tăng cao và tạo ra những bất ổn kinh tế vĩ mô từ bốn, năm năm nay. Sự bất ổn
ấy, nhất là lạm phát, đã kéo theo lãi suất tăng cao, đẩy các doanh nghiệp vào
tình thế rất khó khăn, thiếu vốn và hoạt động không hiệu quả.
RFI: Còn về nguy cơ sụp đổ
của hệ thống ngân hàng Việt Nam ?
TS Nguyễn Quang A: Người ta
kêu rất nhiều về hệ thống ngân hàng Việt Nam, điều đó hoàn toàn đúng. Nhưng
nghĩ rằng cái dễ sửa nhất trong nền kinh tế Việt Nam bây giờ là hệ thống ngân
hàng. Đúng là nó có vấn đề, nhưng vấn đề ấy có thể giải quyết được và người ta
cũng biết cách giải quyết. Có lẽ đó là vấn đề có thể được giải quyết một cách dễ
dàng nhất. Còn những vấn đề khác mà người ta đặt ra trong việc tái cơ cấu kinh
tế, tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước và tái cơ cấu đầu tư công là hai cái khó
nhai hơn cải tổ hệ thống ngân hàng rất nhiều.
RFI: Như vậy lực cản hiện
nay chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước?
TS Nguyễn Quang A: Đúng là
khu vực doanh nghiệp Nhà nước không hiệu quả, sử dụng quá nhiều nguồn lực và
thành tích của nó không tương xứng với những nguồn lực mà nó sử dụng. Vì nó sử
dụng quá nhiều nguồn lực, cho nên nó chèn ép khu vực hoạt động có hiệu quả nhất
ở Việt Nam, đó là khu vực tư nhân.
Chính sự méo mó trong phân
bổ nguồn lực ấy làm cho nền kinh tế Việt Nam hoạt động dưới tiềm năng của mình
rất nhiều. Nhưng cốt lõi không phải là do khu vực quốc doanh, mà là do bản thân
hệ thống chính trị này, do đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, cứ muốn là phải
o bế, nâng đỡ hệ thống doanh nghiệp Nhà nước, bởi vì đấy là công cụ của các nhà
chính trị.
Về mặt lợi ích chính trị,
quyền lực chính trị, hành xử như thế khá là dễ hiểu, khá là hợp lý. Chỉ có điều
nó không phục vụ cho sự phát triển của đất nước và xã hội nói chung.
RFI: Ông có nhận định như
thế nào về đề án tái cơ cấu kinh tế do chính phủ đề ra?
TS Nguyễn Quang A: Chắc chắn
nó sẽ có một kết quả nào đó. Trong tình trạng khó khăn như thế, ai cũng nhìn ra
vấn đề rồi và chắc chắn là nó có một sự cải thiện nào đó. Nhưng chừng nào họ
không nhìn vào vấn đề cơ bản, những sự cải thiện đó sẽ không đáng kể.
RFI: Trước mắt, để cứu vãn
các doanh nghiệp nhỏ và vừa, tức là những doanh nghiệp dễ bị tổn thương nhất,
chính phủ nên có giải pháp nào?
TS Nguyễn Quang A: Giải
pháp 29 ngàn tỷ giảm thuế và hoãn thuế cũng chỉ là giải pháp tạm thời và chắc
là sẽ có một kết quả nhất định.
RFI: Trong kỳ họp này của
Quốc hội, liệu các đại biểu có thể làm được gì để cải thiện hiệu quả của đề án
tái cơ cấu kinh tế mà chính phủ đề nghị?
TS Nguyễn Quang A: Các đại
biểu Quốc hội khó có thể làm được gì nhiều. Thứ nhất đại biểu QH ở Việt Nam
không phải như đại biểu QH ở những nước khác.Ở những nước khác, họ là những người
đại diện cho nhân dân. Họ có nguồn lực, chẳng hạn như có văn phòng, có các cố vấn,
đề họ có thể hình thành chính kiến của mình.
Đại biểu QH Việt Nam không
phải là những người chuyên nghiệp lắm về những lĩnh vực này và lại không có nguồn
lực nữa. Có đem vấn đề thảo luận đi chăng nữa, thì tôi e rằng, bản thân cơ chế
hoạt động của QH, bản thân sức mạnh tiếng nói của đại biểu QH, những thông tin
hay bộ máy giúp họ hình thành chính kiến, để có thể quyết định ủng hộ đề án này
hay ủng hộ đề án kia, tất cả những điều kiện đó đều không có. Có thảo luận nhiều
đi nữa thì cũng khó mà đi đến kết quả khả quan.
RFI : Xin cám ơn tiến sĩ
Nguyễn Quang A.
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20120528-chinh-sach-sai-lam-nguyen-nhan-chinh-gay-kho-khan-cho-cac-doanh-nghiep
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét