Trần
Sĩ Chương
Ngân hàng
được xem là một ngành huyết mạch trong nền kinh tế của một quốc gia. Do đó, hiển
nhiên bất cứ sai lầm nào trong hệ thống ngân hàng đều sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
sự suy thoái kinh tế.
Theo báo
cáo của các ngân hàng tại Việt Nam mức doanh thu lợi nhuận đạt được hằng năm vẫn
đạt con số kỷ lục, nhưng thực tế thì thời gian gần đây, việc giải thể và sáp nhập
hàng loạt các ngân hàng cho thấy hệ thống tài chính ngân hàng của chúng ta đang
thực sự “có vấn đề”.
Điều này
không chỉ thể hiện qua thực tế còn quá nhiều ngân hàng yếu kém dẫn đến tình trạng
nợ xấu tràn lan, mà quan trọng hơn nữa, đó là dấu hiệu của một sai lầm vô cùng
nghiêm trọng xuất hiện khá lâu và có thể đưa đến hậu quả là sụp đổ toàn diện hệ
thống ngân hàng của cả một đất nước.
Bởi bắt nguồn
từ chính sự nhập nhằng giữa hoạt động ngân hàng thương mại (NHTM) và ngân hàng
đầu tư (NHĐT), nên hệ thống ngân hàng phải chấp nhận mức độ rủi ro quá cao, dễ
bị ảnh hưởng bởi chu kỳ kinh tế hoặc những biến động trong cũng như ngoài nước.
Chúng ta cần
nhận thức được sự khác biệt giữa hai hệ thống ngân hàng này để làm rõ vấn đề.
Thông thường, NHTM là một phần quan trọng của cột sống kinh tế. Bởi đây là nơi
đa số người dân ký gửi thu nhập thường xuyên cũng như tiền gửi tiết kiệm của họ.
Với tâm lý
của người lao động thích “ăn chắc mặc bền” cho nên kỳ vọng ưu tiên chính là sự
an toàn của đồng tiền ký gửi, cộng thêm một khoản lãi suất khiêm tốn để đồng tiền
của họ không bị mất giá nhiều do lạm phát.
Từ những quỹ
ký gửi này NHTM sử dụng để đầu tư sinh lãi, thường chỉ bằng lãi suất ký gửi cộng
thêm 2-3% tùy theo quy mô của tổng tài sản. Lợi nhuận đạt được sẽ được ngân
hàng phân ra trả lãi cho đồng tiền ký gửi mà mình đã sử dụng và trang trải chi
phí điều hành lẫn dự trù rủi ro cho số vốn đầu tư.
Cơ bản NHTM
thường chỉ tập trung vào những khoản cho vay truyền thống với rủi ro thấp nhất
như: cá thể mua nhà để ở (với tỷ lệ vốn vay và chi phí nợ / thu nhập cao), hoặc
các doanh nghiệp đã có quá trình kinh doanh tốt và thu nhập ổn định. Như vậy ta
có thể hiểu NHTM hoạt động như một tổ chức phi lợi nhuận, làm lợi chỉ đủ để
trang trải chi phí.
Ngược lại,
NHĐT lại là những tổ chức tín dụng mưu cầu mức lợi nhuận cao, và dĩ nhiên thường
hay đi đôi với một mức độ rủi ro cao hơn. Nguồn vốn chủ yếu của NHĐT là từ các
nhà đầu tư có số vốn lớn và vốn nhàn rỗi. Họ hiểu rõ và chấp nhận mức độ rủi ro
tối đa của luật tham gia là có thể mất hết vốn, chấp nhận rủi ro cao để kỳ vọng
mức lợi nhuận đỉnh.
Thiếu sự rạch
ròi này giữa hai hệ thống sẽ dễ gây ra một sự ngộ nhận chết người đối với người
dân chỉ biết tin vào hệ thống ngân hàng là đồng tiền ký gửi của mình sẽ không
bao giờ có rủi ro. Để rồi khi có biến động, người dân mất lòng tin, rút tiền
hàng loạt từ các ngân hàng thương mại. Hậu quả như thế nào thì ai cũng có thể
đoán được.
Bài học từ
nền kinh tế Mỹ và châu Âu
Vào thập
niên 1920, Luật Ngân hàng ở Mỹ còn lỏng lẻo nên các NHTM dùng tiền ký gửi của
người dân để đầu tư mạo hiểm vào những lĩnh vực kinh doanh có mức lợi nhuận cao
nhưng nhiều rủi ro.
Việc đầu tư
bừa bãi để lấy phần trăm hoa hồng, cộng với chính sách tiền tệ phóng túng đã
gây nên tình trạng siêu lạm phát, dẫn đến sự sụp đổ của thị trường chứng khoán
Mỹ và một thời kỳ khủng hoảng lớn nhất trong lịch sử nước này.
Đến năm
1932, Tổng thống Franklin Roosevelt và Quốc hội Mỹ cho ra đời đạo luật ngân
hàng Glass-Steagal Act 1933, phân biệt rạch ròi hoạt động của NHTM và NHĐT.
Theo đó,
NHTM chỉ được phép hoạt động trong lĩnh vực cho vay đối với những hoạt động
kinh doanh truyền thống, ít rủi ro nhất và phải có đầy đủ tài sản thế chấp cụ
thể và một cách tương xứng, nhằm đảm bảo tính an toàn, ổn định cho số tiền gửi
tiết kiệm của người dân.
Còn NHĐT có
thể sử dụng tiền ủy thác vào các hoạt động kinh doanh với độ rủi ro cao hơn, dĩ
nhiên là vì kỳ vọng có được mức siêu lợi nhuận.
Sự tách biệt
giữa hoạt động của NHTM và NHĐT nhằm minh bạch hóa các hoạt động ngân hàng và tạo
sự rạch ròi trong mức độ rủi ro của đồng tiền mà người dân ký gửi vào ngân
hàng, là nền tảng của một hệ thống ngân hàng ổn định, tạo nên sức mạnh cho hệ
thống tài chính và kinh tế phát triển bền vững.
Đến đầu thập
niên 1980, sau 50 năm nước Mỹ phát triển ổn định với một mô hình tài chính ngân
hàng mẫu mực cho cả thế giới, Tổng thống Reagan và chính phủ Mỹ thuộc Đảng Cộng
hòa lên nắm quyền, chủ trương phát triển kinh tế thị trường tối đa, giảm thiểu
vai trò của chính phủ trong môi trường tự doanh.
Chính sách
này đã mở cửa cho các ngân hàng tiết kiệm, thương mại đầu tư dàn trải, ra ngoài
phạm vi giới hạn của hệ thống NHTM truyền thống như những năm trước đó. Nhiều
NHTM đã lợi dụng cơ hội này để đầu tư vào nhiều dự án phát triển bất động sản
siêu lợi nhuận với quy mô lớn nhưng cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro.
Hậu quả là
một cuộc khủng hoảng ngân hàng đầu tiên xảy ra chỉ vài năm sau đó khi các dự án
bất động sản lớn xây xong nhưng không bán được, hoặc đang xây nửa chừng thiếu vốn
phải bỏ cuộc, đã gây tổn hao đến hơn 300 tỉ USD cho ngân sách chính phủ.
Nước Mỹ đã
phải mất gần năm năm để giải quyết phần lớn các nợ xấu này trong hệ thống ngân
hàng, dẫn đến sự suy thoái kinh tế trầm trọng khiến cho Tổng thống Bush (cha) bị
thất cử chỉ sau một nhiệm kỳ cầm quyền.
Đến thập
niên 1990, sau khi giải quyết hết các công nợ lớn từ khủng hoảng, các đại gia
tài chính - ngân hàng tiếp tục những chiến dịch vận động hành lang để ngân hàng
được phép tham gia vào các lĩnh vực đầu tư rủi ro mà trước đây bị cấm.
Kết quả là
năm 1999, đạo luật Gramm-Leach-Bliley được ký, chính thức khai tử luật
Glass-Steagal - một đạo luật đã là nền móng cho sự phát triển bền vững của
ngành ngân hàng Mỹ trong suốt 66 năm (1933-1999) - do áp lực “lobby” chính phủ
của một số các NHTM đầu đàn của Mỹ như: Bank of America, Wells Fargo, CitiBank…
để họ được tự do đầu tư vào chứng khoán và một số lĩnh vực rủi ro khác ngoài
các hoạt động cho vay truyền thống của hệ thống NHTM.
Chính sách
tín dụng mới thoải mái này với mức lãi suất rất thấp dưới thời Tổng thống Bush
đã tạo ra sự tăng trưởng ảo từ những đầu tư vô tội vạ, dẫn đến sự phát triển
nóng trong lĩnh vực bất động sản.
Kết quả là
hệ thống tài chính - ngân hàng Mỹ không chịu nổi gánh nặng do chính mình tạo
ra, lại dẫn đến một cuộc khủng hoảng tài chính lớn nhất trong gần 80 năm qua
không chỉ ảnh hưởng đến Mỹ mà còn đến toàn thế giới.
Cũng vào
giai đoạn từ những năm 2000, do mong muốn cạnh tranh với các ngân hàng Mỹ nên
nhiều ngân hàng ở châu Âu cũng phát triển năng động, lại tiếp tục đi theo con
đường sử dụng vốn NHTM cho đầu tư rủi ro cao.
Do đó, nợ xấu
của các ngân hàng châu Âu hiện nay đang rất nghiêm trọng. Trong khi nền kinh tế
Mỹ chưa kịp phục hồi thì kinh tế châu Âu còn đang trên bờ vực thẳm. Sự khủng hoảng
theo hiệu ứng “domino” chưa có hồi kết này khiến nhiều người dự đoán rằng nền
kinh tế thế giới khó có khả năng phục hồi trong vòng năm năm tới.
Và thực tế ở
Việt Nam
Ngay từ thời
kỳ hội nhập, ngân hàng Việt Nam đã không rạch ròi trong các hoạt động kinh
doanh của mình. Lẽ ra cần làm rõ NHTM chỉ được hoạt động trong lĩnh vực cho vay
những hoạt động kinh doanh truyền thống, ít rủi ro nhất và có đầy đủ thế chấp cụ
thể một cách tương xứng.
Còn loại
hình NHĐT hoạt động kinh doanh lợi nhuận cao với độ rủi ro cao, để từ đó các
nhà đầu tư khi tham gia vào ngân hàng này là đã tiên liệu và chấp nhận được mọi
tình huống.
Có lẽ vì
chưa nhận thức được hậu quả nghiêm trọng của việc nhập nhằng hai khái niệm NHTM
và NHĐT nên hệ thống tài chính - ngân hàng nước ta đã không có biện pháp nhằm
minh bạch hóa và kiểm soát hiệu quả hoạt động của hệ thống NHTM.
Vì vậy, nhiều
NHTM đã đổ xô chạy theo lợi nhuận ảo đầu tư vào chứng khoán và bất động sản -
hai lĩnh vực được coi là nhạy cảm nhất trước các biến động của nền kinh tế
trong nước và thế giới.
Đến đầu năm
2008, khi những dấu hiệu khó khăn của nền kinh tế bắt đầu xuất hiện như lạm
phát tăng cao, thị trường chứng khoán và bất động sản đi xuống, nhiều NHTM đã nhanh
chóng rơi vào khó khăn về mặt thanh khoản.
Nếu không
có sự hỗ trợ của Ngân hàng Nhà nước thì các ngân hàng này còn có thể rơi vào
tình trạng nợ xấu hơn. Bên cạnh đó, luật pháp đối với ngành ngân hàng lại còn
nhiều lỗ hổng nên các ngân hàng dễ dàng sử dụng tiền gửi của dân để đầu tư với
rủi ro cao.
Mà một thực
tế là cho dù luật pháp có nghiêm đến đâu thì vẫn có cách lách luật, bởi lòng
tham với cái lợi trước mắt. Hơn thế nữa, nguy hiểm ở chỗ tâm lý chung của những
nhà điều hành ngân hàng là tranh thủ đầu tư dàn trải trong giai đoạn nền kinh tế
đang nóng để có thể thu được lợi nhuận lớn.
Hầu hết các
NHTM hiện nay đều hồ hởi nắm bắt ngay cơ hội trước mắt bằng nguồn tiền có sẵn
nhưng họ lại không quan tâm hoặc không lường trước được chu kỳ kinh tế và những
rủi ro chực chờ sau những cơn sốt giá bất thường. Vì vậy, một cái kết có thể dự
đoán trước là một số NHTM sẽ nhanh chóng rơi vào tình trạng gần như phá sản như
thực tế hiện nay.
Giải pháp
nào cho ngân hàng Việt Nam?
Trong tình
hình hiện nay, Nhà nước cần thực tế nhìn nhận sự thiếu minh bạch của hệ thống
NHTM trong hệ thống tài chính - ngân hàng nước ta. Từ đó, chúng ta mới hướng đến
chỉnh đốn lại hệ thống ngân hàng theo hướng rạch ròi giữa hai hệ thống - NHTM
và NHĐT.
Cụ thể là
những người làm ngân hàng nên mạnh dạn đối mặt thực tế, khoanh vùng nợ xấu để
giải quyết triệt để càng nhanh càng tốt, tránh cho nợ xấu tiếp tục lây lan. Đây
cũng là cách giải quyết của Mỹ trong việc đẩy lùi khủng hoảng kinh tế dưới thời
Tổng thống Reagan.
Ngoài ra,
việc nâng cao nhận thức của người dân cũng vô cùng cần thiết, nhằm giúp họ đánh
giá đúng chỉ số đầu tư an toàn của mỗi ngân hàng, qua đó họ có thể chủ động lựa
chọn gửi tiền vào ngân hàng nào phù hợp với nhu cầu của mình.
Đó là sử dụng
một cách hiệu quả bàn tay vô hình của thị trường, qua sự ý thức của người tiêu
dùng, để hệ thống ngân hàng có tính điều chỉnh cao và là nền tảng cho sự phát
triển bền vững của nền kinh tế đất nước.
Trần Sĩ
Chương
http://doanhnhansaigon.vn/online/dien-dan-doanh-nhan/thoi-su/2012/05/1064258/tu-h
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét