Gs. Nguyễn Hữu Chi
Câu
hỏi đáng nêu ra ở đây là: Tại sao hàng triệu người bần cùng bị Tư Bản Đỏ cướp
bóc và đánh đập một cách tàn tệ như vậy, mà không có ai dám nổi lên châm ngọn lửa
vào thùng thuốc súng để tiêu diệt chế độ? Để trả lời câu hỏi này, một số người
đại khái cho rằng lực lượng cán bộ khuyển mã (CA) quá hùng hậu và quá tàn bạo với
những chiến thuật sau đây:
“Bắt
nhầm còn hơn thả nhầm”: bắt cóc, đập chết nghi phạm trong phòng tạm giam, bỏ tù
và đày ải người vô tội, v.v.
Dùng
cán bộ nằm vùng: tìm tin tức; nhận diện thành phần lãnh đạo phong trào chống đối
(để sau này thanh toán); phân chia nội bộ trong các phong trào chống đối; gây
không khí nghi ngờ trong hành ngũ đối lập.
Kiểm
soát thông tin, và dùng tiền mua chuộc những thành phần có uy tín trong xã hội,
để lợi dụng họ trong chương trình ca tụng chế độ.
Dân
ta bị đánh đập nhiều năm, nên bây giờ đã “quen đòn” nên không còn biết tức giận
đến nỗi muốn nổi lên chống đối.
Những
lý do nêu ở trên đều có vẻ hữu lý, nhưng vẫn chưa đủ mạnh để thuyết phục một số
người không đủ kiên nhẫn chờ đợi. Vì thế có người lại đưa ra một giải thích rất
ư là giản dị: Theo họ, đại đa số dân ta (80 triệu người) hàng ngày bị nhóm thiểu
số (3 triệu đảng viên) “bợp tai đá đít tơi bời”, thế mà vẫn chịu đựng được, vì
dân ta là một dân tộc hèn, chỉ biết ngồi than vãn mà không dám vùng lên diệt giặc.
Phải chăng bản tính hèn này bắt nguồn từ “văn hóa quỳ” như tác giả Nguyễn Gia
Kiểng trình bày trong tác phẩm “Tổ quốc ăn năn”?
Theo
tôi nghĩ, chúng ta không nên “vơ đũa cả nắm” như vậy. Thực ra, dân ta rất khôn
và rất hùng, chứ không ngu, và cũng chẳng hèn. Nếu hèn, tại sao lại có chuyện
ông “Lê Lai liều mình cứu Chúa”? Tôi xin phép mở ngoặc ở đây, để phân tách hành
động của hai nhân vật lịch sử này. Ông Lê Lợi bị giặc Tàu vây đánh. Trong cơn
nguy khốn, ông Lê Lợi bèn cửi áo bào cho cháu là Lê Lai mặc. Ông này giả dạng
làm ông Lê Lợi, rồi xông ra trận. Giặc bị lừa, mãi đuổi theo và giết ông Lê
Lai, nên để cho ông Lê Lợi có dịp chạy khỏi vòng vây. Ông Lê Lai quả rất là
hùng, vì biết cần phải hy sinh đời mình, để cứu sống lãnh tụ. Ông Lê Lợi quả là
rất khôn, biết lúc nào cần phải mang người cháu ra làm mồi cho giặc, để thoát
khỏi cơn nguy khốn.
Câu
chuyện Lê Lợi-Lê Lai này làm cho tôi thấy ngay rằng: trong cuộc đấu tranh nào
cũng vậy, muốn thành công phải có người khôn đứng ra lãnh đạo chỉ huy, và người
hùng mang thân ra hy sinh nếu cần. Thí dụ, trong cuộc chiến tranh thảm khốc vừa
qua, ta thử hỏi: Ai khôn ngoan (quỷ quyệt) hơn “Bác”? Ai anh hùng hơn là những
“cháu ngoan”, vội vã khắc lên mình 4 chữ “Sinh Bắc Tử Nam”, để rồi chết tức tưởi
trên đường mòn mang tên “Bác”?
Thôi
bây giờ để tránh đôi co, chúng ta hãy cứ tạm coi dân ta rất khôn ngoan như ông
Lê Lợi, và đến lúc hữu sự thì dân ta cũng biết nổi máu anh hùng như ông Lê Lai.
Thành
phố khôn ngoan, Nông thôn oai hùng
Trong
bài nhận xét ngắn ngủi về vấn đề “Ai Sẽ Châm Ngòi?”, tôi đặc biệt chú trọng vào
thành phố hơn là nông thôn, vì thành phố trong lịch sử loài người luôn luôn là
nơi phát sinh ra những cái “khôn ngoan” của nhân loại; còn tiếng thơm “anh
hùng” thì lại luôn luôn để dành cho nông thôn hưởng. Để chứng minh hiện tượng
này, chúng ta hãy thử đi qua một vòng lịch sử thế giới: từ Athenes (nơi bắt đầu
phát triển ý niệm dân chủ cho nhân loại), qua Paris (nơi nuôi dưỡng tư tưởng tự
do và nhân quyền), tới New York, Boston (nơi phát sinh ra ý chí độc lập và dân
chủ), rồi đến Hồng Kông, Thượng Hải (nơi phát hiện ra những tư tưởng “bài
phong, đả thực”), v.v...
Nói
tóm lại, thành phố là cái nôi nuôi dưỡng tư tưởng cách mạng. Vì thế ta thấy bất
cứ cuộc đấu tranh nào cũng bắt đầu bùng nổ trong thành phố. Rồi sau đó, tư tưởng
cách mạng mới lan tràn tới nông thôn -- nhất là khi các vị lãnh đạo cách mạng
thấy cần thêm nhân lực để đối chọi với một thế lực địch quá hùng mạnh. Lúc đó
nông dân được huy động bao vây thành thị, và tham dự biểu tình bạo động. Nếu cần,
đám nông dân nghèo khổ này cũng được động viên để trợ giúp phong trào “nhân dân
kháng chiến” theo kiểu Mao Trạch Đông hoặc Hồ Chí Minh v.v... Ta cũng nên nhớ
trong các cuộc đảo chánh ở các thành phố lớn, những lãnh tụ cách mạng (như
Lê-Nin và Sì-Ta-Lin) đã thành công mà không cần đến lực lượng nông dân; do đó
hai tên đồ tể này coi đám “nông nô” như trâu-bò, để lợi dụng trong chương trình
tăng gia sản xuất nông phẩm dùng vào việc chăm nuôi các đồng chí “làm cách mạng”
nơi thành thị.
Các
lãnh tụ cách mạng “khôn ngoan” ở chỗ đó, và nông dân được tiếng “anh hùng” cũng
ở chỗ đó. Ở Việt Nam trong vài chục năm vừa qua, dân ta đã phải trải qua bốn
“cuộc chiến thần thánh” (đánh Tây, đánh Mỹ, đánh Miên, đánh Tàu). Nhóm lãnh đạo
Đảng rất khôn ngoan, nên trong giai đoạn máu lửa “bách chiến bách thắng” này,
đám lãnh đạo ngồi trên chóp bu quyền lực chỉ có vài mống bị giết -- thường chết
trong nội cung (thanh toán nội bộ) nhiều hơn là chết ở ngoài chiến trường. Trái
lại, nhưng nông dân tỏ ra rất oai hùng, nên đã hy sinh hơn 2 triệu nhân mạng. Cảnh
máu chết thịt rơi này làm thế giới phải “rụng mình, sởn tóc gáy”! May thay, sau
4 cuộc chiến thần thánh và kinh hồn, dân ta đã biết theo gương các đồng chí
lãnh đạo, nên dần dần trở nên khôn ngoan hơn trước.
Dân
ta lột xác: từ hùng tới khôn
Hành
động anh hùng thì tương đối dễ hiểu, nhưng biết thế nào là hành động khôn
ngoan? Trước hết, người khôn ngoan là người biết suy xét. Hành động suy xét nào
cũng đỏi hỏi một sự so sánh. Chúng ta so sách hiện tại với quá khứ để hoạch định
tương lai. Đồng thời, chúng ta cũng so sánh “ta” với những người sống xung
quanh ta để xem “ta” đã khôn tới mức nào. Kết quả cuộc so sánh này sẽ làm cho
ta: (a) hoặc thỏa mãn và chấp nhận chế độ; (b) hoặc làm cho ta nổi cơn giận tam
bành, rồi vùng lên đập tan nồi cơm đã từng chăm nuôi chế độ.
Theo
nguyên tắc, con người ai cũng khôn ngoan, tức là biết tính toán. Tính toán đòi
hỏi một hành động so sánh. So sánh “người với ta”, hoặc so sánh “thời đã qua với
thời hiện tại”. Hành động so sánh này có thể đưa tới bất mãn. Bất mãn đưa đến tức
giận. Tức giận cùng cực tạo ra khuynh hướng “liều mạng”. Hành động “liều mạng”
để cứu đất nước ra khỏi cảnh hàn vi thường được coi là hành động anh hùng – dù
“không thành công, thì cũng thành nhân” là vậy. (Người anh hùng thường chỉ biết
tiến chứ biết lùi, nên ít khi bi quan tiêu cực, vì thế ít khi họ nghĩ ngược lại
và cho rằng “không thành công thì thành ma”).
So
sánh theo giòng thời gian
Trước
hết, ta so sánh quá khứ với hiện tại, để rồi hoạch định tương lai. Câu hỏi được
đặt ra là thời điểm nào trong quá khứ dùng làm đích để cho ta so sánh với hiện
tại. Đối với những sĩ quan, công chức VN Cộng Hòa, đó là quá khứ tự do dân chủ
trước ngày 30-4-1975, và cái quá khứ được dùng làm khuôn mẫu để so sánh với cảnh
kinh hoàng trong thời gian cải tạo. Vì thế, những nạn nhân này không bao giờ
tha thứ hành động khát máu đó. Ở nước ngoài, họ không có thể hành động bạo lực,
nhưng sẵn sàng dùng đòn bẩy ở các thủ đô Âu-Mỹ để tiếp tay với quốc nội đẩy chế
độ Tư Bản Đỏ xuống vực thẳm. Đừng chê bai những Việt kiều HO này là người “chỉ
biết đánh võ mồm”, hoặc thách thức họ trở về VN tham dự vào phong trào chống đối
chế độ. Dù sao đi chăng nữa, họ là những người có tuổi, chỉ còn hy vọng thế hệ
Việt kiều trẻ sau này vẫn giữ nguyên vẹn ý chí tranh đấu cho dân tộc VN ra khỏi
cảnh độc tài tàn bạo.
Ngoài
ra, những Việt kiều nào chưa có dịp sống ê chề trong trại cải tạo, thì tinh thần
chống cộng cũng “nhẹ nhàng” hơn, nên họ rất thoải mái “mặc áo gấm về làng”. Còn
những vị cựu quân nhân hoặc cựu công chức nào không được xuất ngoại theo diện
HO (vì không phải là “cựu sinh viên trường cải tạo”), nên còn kẹt lại ở Việt
Nam. Sau 1975, họ cố gắng lo lắng làm ăn, và có thể lặng lẽ chỉ bảo con cái về
ý thức Tự Do Dân Chủ mà họ đã hưởng dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa khi xưa.
Trong
xã hội Việt Nam hiện nay, đại đa số sinh trưởng sau 1954. Một số (nhất là những
anh chị em sinh trưởng miền Bắc) đã được chứng kiến cảnh nội chiến tương tàn,
bây giờ được sống trong thanh bình, nên cảm thấy thoải mái (nhất là những người
có công trong cuộc nội chiến). Vì thế họ không cảm nhận được nỗi đau khổ trong
đám nông dân đang bị đàn áp, tuy đã trải qua thời “kinh tế bao cấp”, cả nước cực
kỳ đói khổ, nhưng cũng còn khá hơn thời chiến tranh.
Còn
thế hệ sinh sau 1975 lại so sánh thời “Kinh Tế Bao Cấp” với thời kỳ “Kinh Tế Thị
Trường” tức là mãi đến khoảng năm 1980, cả nước mới được “cởi chói”. Tới lúc
này, mọi người cũng cảm thấy tương đối mãn nguyện. Trong đời sống hàng ngày,
nhóm thanh niên trẻ này (trên hoặc dưới 30 tuổi) thích sống theo “Văn Hóa Thị
Trường” hơn là theo “định hướng XHCN”. Họ chọn “Văn Hóa Thị Trường” không có
nghĩa là họ chọn tinh thần tự do cạnh tranh của thị trường. Trong thực tế, họ
thu hẹp sự chọn lựa trong khía cạnh “tự do hưởng thụ”, nhất là khi nhận thấy hệ
thống kỳ thị trắng trợn đang đè bẹp xã hội: “Chỗ béo bở” thì dành cho “con ông
cháu cha”. Còn những nơi “khỉ ho cò gáy”, thì người đi xin việc cũng phải mất từ
6 tháng đến một năm lương cho “cấp trên” mới có chỗ “ngồi”.
Nói
tóm lại, nhà nước càng mở nhiều trường đại học và cao đẳng bao nhiêu, thì càng
tạo ra nhiều nỗi uất ức bấy nhiêu. Đây mới là quả bom nổ chậm tại nơi thành thị.
Đó là lúc chế độ Tư Bản Đỏ giãy chết, không khác gì chế độ độc tài ở Tunise.
Trong xứ độc tài này, một thanh niên học thành tài, nhưng không kiếm được việc
làm, đành phải kéo xe ba-gác đi bán rau ngoài phố. Thế mà anh ta lại còn bị một
nữ cảnh sát viên tát vào mặt vì không chịu chi tiền “mãi lộ”! Anh thanh niên tự
trọng này đành phải tự thiêu, và kéo theo chế độ độc tài rơi xuống vực thẳm.
Nào có ai ngờ một cái bạt tai làm tan tành một chế độ độc tài thối nát!
So
sánh Ta với Người trong không gian quen thuộc
Con
người luôn so sánh mình với người khác, nhất là những người mình quen biết, để
biết mình sướng hay khổ đến mức nào. Trước 1975, dân miền Bắc sống dưới sự lãnh
đạo của “Bác” trong “Thiên Đường Cộng Sản”. Đại đa số không có dịp nhìn người sống
bên ngoài, nên luôn luôn vui vẻ, trong khi chia nhau củ khoai mì với bạn bè
thân thuộc, hoặc ca múa theo khúc nhạc “Hòa Bình” (nhập cảng từ Liên Sô). Nhưng
“Thiên Đường Mù” đã bị hoàn toàn sụp đổ khi các đồng chí vào Sài-Gòn, nhìn thấy
cảnh trù phú quá sức tưởng tượng do chế độ “Mỹ Ngụy” đã xây dựng lên.
“Vi
khuẩn Mỹ Ngụy” này cần phải trừ khử ngay! Nhà Nước bèn dùng chính sách “bần
cùng hóa” miền Nam để không còn ai có dịp so sánh hai chế độ được nữa. Nhưng khổ
một nỗi, văn hóa Miền Nam là một văn hóa phát triển theo truyền thống Kinh Tế Tự
Do, mà Đảng ta cố gắng bóp cho đến chết, nhưng không thành công. Thế là “Đảng
ta” đành phải thay đổi chính sách: từ “Kinh Tế Mao” (tức là “Kinh Tế Đảng Chấm
Công”) thành “Kinh Tế Thị Trường”, nhưng lại kèm theo cái đuôi “theo Định Hướng
Xã Hội Chủ Nghĩa”.
Người
dân Miền Nam cũng như Miền Bắc mãi làm ăn không quan tâm đến “định hướng” này
hay “định hướng” nọ. Chỉ một thời gian ngắn, dân ta tìm ngay ra cách lợi dụng
“Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa” để tự phát triển – tức là “ăn có” với cán bộ về
hưu, và dùng vốn của Việt kiều mang về nước đầu tư. Chỉ tội dân lao động “chân
lấm tay bùn” bị tài phiệt “đỏ” cũng như “xanh” thẳng tay bóc lột. Cũng vì những
tên “ăn có” này không bao giờ muốn đập vỡ nồi cơm của mình, nên họ rất thờ ơ tới
thời cuộc, tuy rằng nhiều khi họ cũng bị bực mình vì các “đồng chí” phiền nhiễu
họ quá đáng.
Cái
nguy hiểm cho chế độ không phải là hệ thống thối nát, vì dân ta từng có truyền
thống “đút lót”, từ đút lót quan lại cho đến đút lót các vị thần linh (điển
hình nhất là lễ ông thần Thổ Địa hàng năm vào ngày 23 tháng chạp, để ông thần
này bay về Trời báo cáo tốt cho nhà mình). Tuy nhiên, đến mức nào đó, hệ thống
thối nát trở thành một “quốc sách bất thành văn”, tạo ra những hành động lợi dụng
quá đáng, đưa đến bất công và chênh lệnh sâu xa giữa các “đại gia”, “con ông,
cháu cha”, và giới bình dân.
Ngoài
ra, các cán bộ cũng so sánh lẫn nhau, và “tình đồng chí” giữa các cán bộ cũng bị
tổn thương vì ghen ăn, theo kiểu “trâu buộc ghét trâu ăn”. Trong đám “trâu buộc”,
phải kể những cán bộ về hưu, những cán bộ bị “thất sủng”, hoặc những cán bộ tại
chức nhưng không có dịp mánh mung lớn (như các quân nhân cấp úy trở xuống, các
vị giáo sư đại học, các trí thức tiến sĩ không quen làm nghề “cò mồi”, v.v..).
Nói tóm lại, nhóm lãnh đạo của chế độ cũng đang bị nạn chia rẽ trầm trọng.
Kết
luận
Sau
vụ cướp đất lung tung, từ Bắc tới Nam, nông dân rất căm phẫn, và sẵn sàng nổi
lên theo phong trào diệt giặc. Họ sẽ theo ai? Đó là bổn phận của các nhóm dân
thành thị, có sẵn phương tiện truyền thông đại chúng rất dồi dào, và sự quen biết
rộng rãi để móc nói với các thành phần bất mãn ở bên trong, hoặc bên ngoài,
chính quyền. Đó là những người có khả năng “châm thùng thuốc súng” để nông dân ồ
ạt tiến lên quét sách tụi cường hào địa chủ Mác-Xít.
Gs.
Nguyễn Hữu Chi
http://danlambaovn.blogspot.com/2012/05/tu-ban-o-ai-se-cham-ngoi.html#more
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét