Nối gót người xưa

…. nối gót người xưa
Vì hiểm họa mất nước cùng những khổ đau không ngừng của dân tộc, vì những xót xa quằn quại triền miên của quê hương, vì những máu xương đổ xuống để tạo dựng những trang sử oai hùng đánh đuổi ngọai xâm của tiền nhân, của cha anh, của bè bạn,
Chúng Ta
Hãy đứng lên nhận lãnh trách nhiệm
Hãy đạp lên những sợ hãi mà cùng nhau bước tới, bước tới. Đọc tiếp

TÀI LIỆU header


TÀI LIỆU

Date




_____________________________




TÌNH THẾ TIẾN THOÁI LƯỠNG NAN CỦA TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM : CHỈ ĐẠO TRONG MÔI TRƯỜNG CHIẾN LƯỢC MỚI

Ts. Marvin Ott
Dịch : Lê Quốc Tuấn

Uy thế là một siêu cường duy nhất trên thế giới của Hoa Kỳ và sự xuất hiện nhanh chóng của Trung Quốc như một cường quốc ưu việt trong khu vực Đông Á đã đưa Việt Nam đến một tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Sự vươn lên của Trung Quốc đã đặt ra một mối đe dọa hiện hữu tiềm tàng dù rằng trục chuyển đến Châu Á của Mỹ đã từng đưa ra được một giải pháp có tiềm năng.

Trong khi thách thức của Trung Quốc đã thử nghiệm đến sự nhạy bén của các quan chức tại Hà Nội về chiến lược, phản ứng của Việt Nam đã là đa diện và đi theo chín chỉ đạo rõ ràng.

Chín chỉ đạo Hướng dẫn

Đầu tiên là vận dụng thông qua các nguồn quan hệ giữa Đảng với nhau để vun trồng các quan hệ cải thiện với Trung Quốc. Thành tích nổi bật trong nỗ lực này từng là việc giải quyết tranh chấp biên giới trên đất liền và trong Vịnh Bắc Bộ – chứ không phải ở vùng Biển Đông.

Thứ hai là xây dựng sức mạnh của Việt Nam bằng cải cách và mở cửa nền kinh tế -đổi mới- nâng cấp các lực lượng vũ trang với sự tập trung đến các khả năng ngăn chặn xâm nhập hàng hải (maritime denial capabilities).

Thứ ba là tham gia và liên kết với ASEAN để bất kỳ mối đe dọa đối với Việt Nam ngày càng được xem như một mối đe dọa cho tất cả khối Asean.

Thứ tư là sử dụng mọi cơ hội thông qua: hiện diện chính thức, tuyên bố công khai, các cuộc diễn tập quân sự và “những sự thật hiển nhiên” để khẳng định “chủ quyền” của Việt nam ở Biển Đông.

Thứ năm là để tạo điều kiện thuận lợi cho các cuộc đàm phán được hình thành nhằm làm suy giảm các tranh chấp lãnh thổ giữa các nước ASEAN trong Biển Đông để trình bày được một mặt trận thống nhất chống lại Trung Quốc.

Thứ sáu là thu hút các công ty dầu mỏ quốc tế (bao gồm cả Ấn Độ) vào Biển Đông bằng cách cung cấp các nhượng bộ hấp dẫn trong các hợp đồng thuê bao.

Thứ bảy là phát triển mối quan hệ gần gũi hơn với Nhật Bản và nâng cấp mối quan hệ quân sự với Nga và Ấn Độ – bao gồm cả khả năng truy cập vào Cảng Cam Ranh đã được sửa chữa lại

Thứ tám là thông báo thường xuyên và rõ ràng cho phía Bắc Kinh rằng Việt Nam “không bao giờ có thể chấp nhận” các khiếu nại về chủ quyền hàng hải của Trung Quốc.

Cuối cùng là, nuôi dưỡng một mối quan hệ ngày càng chặt chẽ với Hoa Kỳ bao gồm cả khía cạnh kinh tế, ngoại giao và quân sự.

Cuộc phát triển mối quan hệ quân sự với Mỹ đã từng đáng được chú ý đặc biệt. Bắt đầu với sự hợp tác thận trọng trong việc giải quyết các trường hợp MIA / POW trong những năm 1980, các mối liên hệ thực tế giữa quân đội và quân đội đã bắt đầu vào giữa những năm 1990. Điều này đã làm nở rộ những chuyến ghé thăm cảng thường xuyên của hải quân Mỹ đến Việt Nam, một cấu trúc “đối thoại chiến lược” giữa hai cơ quan quốc phòng và các tham khảo thường xuyên giữa các quan chức cấp cao của Việt Nam đến một mối “quan hệ đối tác chiến lược” với Mỹ. Phần lớn động lực bất thành văn nhưng không thể nhầm lẫn cho mối quan hệ này chính là một mối quan tâm chung về Trung Quốc.

Môi trường chiến lược của Việt Nam

Việc Trung Quốc mở rộng quyền lực đã tạo ra một môi trường hoàn toàn không đối xứng về chiến lược cho Việt Nam. Ngày nay, Việt Nam có thể sẽ không lặp lại được thành công quân sự chống lại Trung Quốc như năm 1979 và Hà Nội biết điều đó. Nếu Trung Quốc kiên quyết khẳng định mình – chẳng hạn như bằng cách loại trừ các ngư dân Việt Nam khỏi các khu vực Biển Đông – có lẽ Việt Nam sẽ không có cách gì để ngăn chặn họ. Tuy nhiên, một số xu hướng trong khu vực đang có lợi cho phía Việt Nam.

Thứ nhất, có một chiến lược tái tập trung (“chuyển trục”) vào khu vực Đông Nam Á và Biển Đông của Mỹ. Hà Nội cũng nhận thức được rằng sức mạnh quân sự của Mỹ là hiệu quả duy nhất và tối hậu đối với sự quyết đoán ngày càng tăng của Trung Quốc. Thứ hai, có một lo lắng rõ ràng và đang phát triển ở Đông Nam Á về các ý định của Trung Quốc. Kết quả là đã có sự sẵn lòng ngày càng tăng giữa các chính phủ ASEAN để bày tỏ mối quan tâm chia sẻ về Bắc Kinh – và Hoa Kỳ. Từ lâu nay, Trung Quốc từng tìm cách giải quyết các tranh chấp trong Biển Đông với Đông Nam Á trên cơ sở song phương hầu qua mắt mọi người. Việt Nam đã tìm cách cách ngược lại – là công khai hóa và quốc tế hoá. Trong trường hợp cụ thể này, lợi thế đang nằm về phía Việt Nam chứ không phải Trung Quốc.

Trong lịch sử, mối quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc là một cuộc đấu tranh để đạt được và giữ gìn độc lập dân tộc thoát khỏi kiểm soát của Trung Quốc. Các cuộc chiến tranh chống Pháp và can thiệp của Mỹ gần đây so với thực tế lịch sử này, chỉ là những chủ đề thứ cấp. Từ khoảng một nghìn năm trước, người dân Việt đã đạt được và duy trì được quyền tự chủ trong cuộc đối đầu với Trung Quốc (với cái giá không rẻ). Từ quan điểm này, thời cai trị của thực dân Pháp, chiến tranh thế giới thứ II, và Chiến tranh Lạnh chỉ nổi bật lên như những sự khác thường có tính lịch sử.

Trong thời gian này, mối thù địch giữa Trung Quốc và Việt Nam đã được kiềm chế bởi các mối đe dọa và nhu cầu khác. Trong “cuộc chiến chống Mỹ” hai chế độ đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin ở Bắc Kinh và Hà Nội đã hợp tác với nhau như những đồng minh. Tuy nhiên, cuộc hợp tác này nhanh chóng giải thể sau năm 1975 khi một nước Việt Nam chiến thắng, thống nhất và đứng về phía Moscow chống lại Bắc Kinh trong những gì từng trở thành cuộc đối đầu cay đắng giữa Trung-Xô. Các sự kiện ấy đã đi đến cuộc đối đầu đầy kịch tính trong năm 1979 khi Trung Quốc phản ứng với cuộc xâm lược của Việt Nam vào Cam-pu-chia (trong đáp trả của phía Việt nam đối với việc Khmer Đỏ tấn công vào các làng Việt Nam) bằng cách gửi 30 quân đoàn Giải Phóng Trung Quốc qua biên giới Việt Nam để dạy cho Hà Nội một “bài học”.

Thế cờ mới của Việt Nam

Bài học chủ yếu đã được học chính là, Quân đội Nhân Dân Trung Quốc đã không hoàn thiện tốt được theo các tiêu chuẩn quân sự hiện đại. Quyền tự chủ của Việt Nam vẫn còn nguyên vẹn. Trong suốt hai thập kỷ sau, mối quan hệ Việt- Trung sẽ được lắng vào một thời kỳ yên lặng có tính chiến lược. Cả hai nước đều bị thu hút vào các nhiệm vụ khổng lồ của tái thiết kinh tế và phát triển. Sự sụp đổ của đế chế Liên Xô vào đầu những năm 1990 đã làm nản lòng cho cả hai nước.

Đối với Hà Nội, điều đó mang ý nghĩa của một sự mất đi một ân nhân quan trọng từng cung cấp cho mình an ninh và viện trợ kinh tế. Điều đó cũng đánh dấu sự ra đời của một cảnh quan chiến lược hoàn toàn mới thống trị bởi hai thực tế: vai trò ưu việt là “siêu cường duy nhất” của Mỹ và sức mạnh tăng trưởng của Trung Quốc trong khu vực. Và các lợi ích của Việt Nam hiện diện ở đó. Việt Nam gia nhập ASEAN và đang phát triển tầm vóc của mình trong khối là minh chứng cho khả năng lèo lái một tiến trình trung gian giữa Mỹ và Trung Quốc của Hà Nội. Việc tái lập mối quan hệ hữu nghị đang phát triển giữa Hà Nội với Hoa Kỳ, kẻ cựu thù của mình, là biểu hiện quan trọng nhất cho sự khôn khéo của Hà Nội trong việc hòa giải với tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược của mình.

Tác giả Tiến sĩ Marvin Ott, là học giả về Chính sách công tại Trung tâm Quốc tế Woodrow Wilson và là giáo sư trợ giảng ở Đại học Johns Hopkins. Bài viết này được đăng tải đầu tiên trong các lời bình luận ở RSIS.

Lê Quốc Tuấn. X-CafeVN chuyển ngữ
http://tintuchangngay8.wordpress.com/2012/05/10/tinh-the-tien-thoai-luong-nan-cua-trung-quoc-va-viet-nam-chi-dao-trong-moi-truong-chien-luoc-moi/#more-677

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét