Thùy Linh
Quê
nội mình ở Nam Định, huyện Mỹ Lộc, xã Mỹ Tiến. Tên làng hay bắt đầu bằng chữ
La. Làng mình là La Xá. Mỹ Lộc cùng với các huyện Vụ Bản, Ý Yên, Nam Trực, Trực
Ninh, Xuân Trường nằm trong vùng đồng bằng thấp trũng. Không hiểu sao đến giờ
mình vẫn nhớ hình ảnh lúc 3, 4 tuổi mặc váy trắng về thăm quê vào mùa nước. Nước
ngập úng làng, úng đồng nên cả nhà phải lên thuyền nan để bơi từ quốc lộ vào
làng.
Mình đang ngủ dở giấc trên ô tô thì bố đánh thức dậy. Mình ngước nhìn ra
thấy thuyền nan đã dậu sát bên cạnh và cánh đồng nước mênh mông nên thích thú
vô cùng, tỉnh cả ngủ. Trên thuyền từ quốc lộ vào làng mình thò tay vớt nước đồng
lên chơi. Nhớ như in nước ngấp nghé mạn thuyền…Không biết vì lẽ gì mình nhớ
hình ảnh đó đến lúc này? Cả vệt nắng nhạt hôm đó. Nước mênh mông, váy trắng,
tay té nước…Giống như phim âm bản sắc nét. Chỉ thế thôi cũng đủ chạm khắc vào
kí ức mình bức tranh đồng chiêm trũng quê nội. Sau này thì hay đùa, mình là dân
cầu tõm. Quả thật làng mình nhiều ao vô kể. Đi đến đâu cũng gặp ao là ao. Từ
nhà này sang nhà kia men theo các bờ ao như lối nhỏ. Niềm hạnh phúc của mình mỗi
khi về quê là được cầm cần câu ra bờ ao cạnh nhà bà mà bố mình gọi là dì ngồi
bên gốc sung. Có khi cả ngày chỉ câu được hai, ba con cá rô ron nấu canh rau
ngót hái vườn nhà mà thích như ăn đại tiệc. Rảnh hơn thì được theo ông ra trại
chăn nuôi hợp tác xã xem lợn, bò, hái chuối, tắm ao…Sáng ngủ dậy bao giờ bên
hiên nhà cũng có mẹt khoai luộc và ấm tích chè xanh hãm sẵn. Thời đó nghèo, ăn
khoai sáng và cơm gạo mới đãi khách thủ đô vào trưa chiều mà như thể cổ tích với
đám trẻ tụi mình. Chạy loăng quăng, hò hét với đám trẻ, cả chửi tục nữa rồi về
nhà bà được ăn thịt gà, canh rau ngót nấu rô ron…Không thể kiếm được ngoài Hà Nội
cảm xúc dạt dào đó.
Bố
mình mồ côi cha mẹ từ sớm và chả còn đất hương hoả nên mỗi lần về chỉ ở nhà mấy
ông bà, chú thím họ hàng bên nội, ngoại của bố. Thời ấy về quê, mình vẫn còn thấy
lớp học xiêu vẹo đầu làng mà bố học lúc còn nhỏ, dưới gốc đa. Giờ cây đa đã chết,
lớp học cũng đổ nát từ bao giờ…Cây hồng mà bố bảo hay trèo ăn khi đói cũng đã
chết già. Đình làng đã sửa sang như mới. Bố bảo cụ kỵ gì của bố được ghi danh
trên bia đá ở đình. Bố có vẻ tự hào về chuyện đó lắm. Hỏi thêm chả biết. Nhưng
lòng tự hào thì không suy suyển. Mình cứ hay trêu bố về chuyện này. Nhưng giờ
có tuổi mình mới hiểu…
Ngôi nhà cũ người đã đi xa... |
Bố
chỉ có một người em trai. Trong một entry mình có kể việc chú đi bộ đội và hy
sinh. Chính xác là ngay trên cánh đồng Vụ Bản năm 1947 vào mùa nước úng. Những
người bà con còn sống kể là chú cao 1,80 mét, tóc hoe, da trắng bóc, mũi lõ nên
người làng gọi chú là tây lai. Sau này mộ chú chìm trong đất và nước nên không
tìm được. Chả biết mộ chú có nằm trong khu vực vừa bị cưỡng chế không nhỉ? Hy vọng
là không…Trong nghĩa trang xã có mộ gió của chú mà lần nào về quê cũng ra đấy
thắp hương khấn vái thành tâm lắm tuy dưới lòng đất chả có gì. Lại nói về nghĩa
trang xã, những người hy sinh trong kháng chiến chống Pháp, Mỹ thì được ghi
rành mạch, còn hy sinh từ năm 1978 trở đi thì chỉ ghi vì “xây dựng và bảo vệ tổ
quốc”…
Phía
tây và nam của Mỹ Lộc đều tiếp giáp với Vụ Bản. Có lẽ vì thế mà mình hay nghe bố
nhắc đến Vụ Bản. Lúc bố còn sống chả mấy khi để ý Vụ Bản ở đâu, thế nào? Nhưng
giờ chuyện xưa cũ của bố bỗng vọt ra khỏi kí ức: nào là ngày trước tên huỵên là
Thiên Bản. Huyện này có nhiều danh nhân nổi tiếng như trạng nguyên Lương Thế
Vinh, nhà thơ Nguyễn Bính, nhạc sỹ Văn Cao…Kể tên những danh nhân này, bố tự
hào như thể là họ hàng của bố. Gần đây thì rộ chuyện lễ bái nên Vụ Bản càng nổi
tiếng với Phủ Dầy (từ mùng 1 đến 10 tháng 3 âm lịch, chính hội vào tối mùng 5);
chở Viềng (đêm 7 và ngày mùng 8 tết)…Giờ bố không còn nên chả hỏi được những
chuyện sống men theo trí nhớ con người, mà anh Gúc gồ danh tiếng lừng lẫy cũng
chịu thua. Hoá ra Vụ Bản có từ thời Hùng Vương, huyện tên Bình Chương thuộc bộ
Lục Hải. Thời Hán thuộc quận Giao Chỉ. Trước thời Lý - Trần, đất này nằm trong
huyện Hiển Khánh. Thời Lý huyện Thiên Bản nằm trong phủ Ứng Phong. Đời Trần huyện
Thiên Bản thuộc phủ Kiến Hưng. Năm Vĩnh Lạc thứ năm (1407), nhà Minh đổi thành
huyện Yên Bản thuộc phủ Kiến Bình. Đến đời Lê Thánh Tông lại đổi thành huyện
Thiên Bản. Cũng dưới thời Lê Hồng Đức, huyện Thiên Bản thuộc phủ Nghĩa Hưng. Đến
thời Nguyễn, Tự Đắc năm thứ 14 (1861) đổi tên thành huyện Vụ Bản và giữ cho đến
ngày nay. Huyện Vụ Bản nằm về phía bắc Nam Định, thuộc vùng đất cổ. Đất đai
tương đối ổn định.
Dọc
phía tây có các dãy núi đất lẫn đá chạy từ bắc xuống nam với sáu ngọn: núi
Ngăm, núi Tiên Hương, núi Báng, núi Lê, núi Gôi và núi Hổ. Dấu vết người nguyên
thuỷ tìm thấy tại các khu vực núi này minh chứng Vụ Bản là một trong những cái
nôi sinh ngụ của người Việt cổ. Vụ Bản nằm kẹp giữa sông Đào và sông Sắt. Sông
Đào một đầu nối với Sông Hồng, đầu kia đổ ra sông Đáy. Sông Sắt nối liền sông
Châu với sông Đáy. Mảnh đất này chính là do phù sa sông Hồng và sông Đáy bồi tụ
nên. Huyện Vụ Bản là vùng đất có truyền thống hiếu học, nhiều người đã đỗ đạt
cao, có danh vọng, đóng góp vào kho tàng văn hoá của dân tộc. Trong suốt thời kỳ
khoa cử của chế độ phong kiến Việt Nam, Vụ Bản có 16 vị đỗ Tiến sĩ, Thám hoa, Bảng
nhã, Trạng nguyên…Lừng lẫy thế kia mà…
Mái tranh ơi hỡi mái tranh/Trải bao mưa nắng mà thành quê hương (Trần Đăng Khoa) |
Giờ
Vụ Bản đang nổi tiếng vì lẽ không ai muốn…
Vậy
là sau sự kiện Tiên Lãng chưa lâu, đã có thêm hai nơi cưỡng chế khiến dư luận nổi
giận là Văn Giang và Vụ Bản. Ừ, nhưng rồi tự hỏi: ai người ta quan tâm đến sự nổi
giận này? Ở Tiên Lãng khi cưỡng chế chưa có đánh hội đồng, chỉ vì phẫn uất
không biết kêu đâu cho thấu oan ức nên anh Vươn đã nổ súng. Tiếng súng của người
nông dân dũng cảm, yêu đất đai đến mức dám hy sinh bản thân mình. Giờ không biết
ngồi trong nhà lao anh Vươn có ân hận về việc này không? Hy vọng là không…Còn
những người nông dân Văn Giang và Vụ Bản thì đã không dám (không thể) nổ súng
thì phải ăn đòn gậy. Đây là bạo lực cách mạng? Là mâu thuẫn giai cấp? Là cách
giải quyết mối quan hệ búa-liềm, nòng cốt của cách mạng như thế này sao?
Mình
lo cho quê mình vì Mỹ Lộc rất gần thành phố Nam Định như Vụ Bản. Vụ Bản bị lấy
đất thì Mỹ Lộc có thể trong tương lai gần? Từ thời bố mình lớn lên thì nhà mình
đã không còn đất đai ở quê, chỉ duy nhất khu mộ các cụ, ông bà là nguyên cớ để
con cháu dắt díu về quê thăm viếng hằng năm. Những ngôi mộ sẽ bị lật tung phơi
xương trắng đồng như ở Văn Giang chăng? Không biết nữa…Đã nghe hơi kim tiền,
hơi đạn cay, mùi thuốc súng đâu đây vì những cánh đồng ngút ngàn bên đường quốc
lộ rất tiện giao thông. Nhà đầu tư chả mất công làm đường và có ngay hạ tầng tiện
cho sản xuất, chi phí thấp nhất, lãi nhiều nhất. Và mình còn biết một điều nông
dân nơi này chỉ trông vào cánh đồng, dù là chiêm trũng để kiếm ăn bao đời,
ngoài ra không có nghề phụ nào khác. Quê mình bao năm vẫn nghèo nhưng không chết
đói vì còn đất đai. Giờ mất đất thì thành dân đói là không thể tránh. Sẽ vài người
giàu, rất giàu. Và rất nhiều nông dân nghèo, rất nghèo, bần cùng, khốn nạn…Sẽ
nhiều anh Pha, chị Dậu trong nay mai. Và như thế sẽ có sự phản kháng trong
tương lai gần cũng là tất yếu.
Bởi
miếng ăn cũng khiến người ta có thể chối bỏ một chính thể đã bạo ngược tước đi
công cụ kiếm sống của họ. Chính quyền đã biến rất nhiều nông dân thành mồ côi
vì với họ đất đai là Mẹ. Giờ người Mẹ đó đã bị cưỡng chế buộc rời khỏi đứa con
luôn cần sự lo toan, chăm sóc, bú mớm của Bà nên những đứa con đó thành mồ côi
đói ăn, đói mặc, khéo hoá ra ăn mày hết cả. Hơn thế dùi cui, súng đạn, bạo lực
đã vụt tan nát và dày xéo miền kí ức của rất nhiều người dân sống đời kiếp gắn
bó với vùng quê họ. Vết thương này mới thực sự lâu lành vì nó ở sâu lắm trong
tiềm thức. Quê hương, rộng hơn là tình yêu đất nước có khi chỉ bắt đầu từ kỉ niệm
vào cái ngày ngồi thuyền về quê chơi mùa úng lụt như mình. Có khi chỉ từ niềm tự
hào mơ hồ nhưng sâu đậm với cái tên cũng mơ hồ không kém đục trên bia đá đình
làng như bố mình. Nay miền kí ức bất khả xâm phạm ấy của rất nhiều người gắn bó
với ruộng đồng đã bị bắn phá tan hoang. Đã đến tới hạn của sự chịu đựng chưa nhỉ?
Ăn
mày khổ lắm ai ơi!
Đói
cơm, rách áo hoá ra ăn mày.
http://www.buudoan.com/2012/05/nhung-nong-dan-mo-coi.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét