Trí Nhân Media : Ngày 15 tháng 5 năm 2012 vừa qua, Ủy ban công lý và hòa bình thuộc
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã công bố bản "Nhận Định Về Một Số Tình Hình tại Việt
Nam Hiện Nay. Mời bạn đọc theo dõi:
NHẬN ĐỊNH
VỀ MỘT SỐ TÌNH HÌNH TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
Chủ trương đổi mới đã giúp Việt Nam hòa nhập vào dòng chảy chung của
nhân loại và đưa đất nước từ một nền kinh tế nghèo nàn đến một trong những nước
có tăng trưởng kinh tế cao nhất châu Á. Tiến trình hội nhập được cụ thể hóa qua
việc Việt Nam trở nên thành viên của khối ASEAN, tham gia APEC, gia nhập WTO.
Việt Nam cũng đã thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều quốc gia, tham gia vào
nhiều tổ chức quốc tế và thu hút đầu tư của nhiều tập đoàn nước ngoài. Xã hội
ngày càng trở nên năng động, sáng tạo và nhìn chung có vẻ giàu có hơn. Nhưng
tình hình gần đây cho thấy nền kinh tế Việt Nam đang mất định hướng, thiếu tính
bền vững và nhân bản, vì đổi mới kinh tế không song hành đổi mới chính trị,
cũng như tăng trưởng kinh tế không nối kết với phát triển xã hội và phát triển
con người toàn diện.
Thư chung hậu Đại hội Dân Chúa năm 2010 mời gọi tất cả các thành
viên của Giáo Hội Công giáo tại Việt Nam cố gắng nhận diện và phân định “hiện
trạng xã hội Việt Nam dưới ánh sáng đức tin”. Chính trong viễn tượng đó, Ủy ban
Công lý và Hòa bình thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam muốn bày tỏ một vài thao
thức, suy nghĩ và nhận định về tình hình Đất nước, vừa với tư cách công dân, vừa
với tư cách Kitô hữu.
1. Nền kinh
tế Việt Nam
Sau gần hai thập niên đạt tăng trưởng kinh tế cao, Việt Nam đã
ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp nhất, nhưng tình trạng mấy năm gần
đây cho thấy nền kinh tế Việt Nam đang bộc lộ những nguy cơ nghiêm trọng,
tác động trực tiếp đến cuộc sống của người dân và tương lai của đất nước.
Biểu hiện rõ nhất là quản lý kinh tế yếu kém, các tập đoàn Nhà nước thua lỗ nặng,
doanh nghiệp phá sản càng nhiều ngân hàng lãi càng lớn, lạm phát tăng cao,
chênh lệch giàu nghèo nới rộng, chất lượng cuộc sống của đại đa số dân chúng giảm
sút, nhiều người rơi trở lại tình trạng nghèo trước đây… Phải chăng mô
hình kinh tế hiện tại đang làm giàu cho nhóm đặc lợi hơn là cho toàn dân?
Định hướng kinh tế lấy quốc doanh làm chủ đạo đã tạo ra độc quyền
và lạm quyền, làm méo mó sự vận hành cần có của nền kinh tế thị trường. Doanh
nghiệp nhà nước đóng góp ít vào tăng trưởng kinh tế nhưng lại nhận nhiều đặc
quyền đặc lợi, gây bất công và kìm hãm sự phát triển của khối tư nhân. Nợ nước
ngoài và thâm thủng mậu dịch đã và đang gia tăng khiến nền kinh tế bị suy yếu
và lệ thuộc. Lạm phát gia tăng cũng làm tăng đói nghèo, gây khó khăn hơn cho cuộc
sống của người dân và cả các doanh nghiệp. Đình công tiếp tục tăng cao chứng tỏ
quyền lợi của công nhân chưa được bảo vệ thỏa đáng. Một số chủ trương không hợp
lòng dân mà vẫn được Nhà nước tiến hành như vụ khai thác bô-xit Tây Nguyên hoặc
dự án xây nhà máy điện hạt nhân ở tỉnh Ninh Thuận.
2. Luật đất đai
Luật đất đai hiện hành, vừa đi ngược tự nhiên, vừa không tôn trọng
Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền. Đó là nguyên nhân của khoảng 80% các khiếu kiện
trong nước. Các vụ khiếu kiện này đã đi từ khiếu nại cá nhân đến khiếu kiện tập
thể; từ khiếu kiện bằng đơn từ đến tập họp phản đối và nay là dùng vũ khí chống
lại việc thu hồi đất.
Luật đất đai qui định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, nhưng do Nhà
nước quản lý đã làm cho hàng triệu người cảm thấy mất đất và chẳng có quyền tự
do hành xử trên “mảnh đất ông bà tổ tiên”. Trên thực tế, sở hữu toàn dân
không phải là phương thức quản lý đất đai tốt nhất, còn việc Nhà nước làm chủ sở
hữu đã phát sinh đặc quyền, đặc lợi của chính quyền các cấp trong việc quy hoạch
và thu hồi đất cho các dự án, tước mất quyền căn bản của người dân.
Vấn đề gây bức xúc nhiều nhất trong việc thu hồi đất là giá đền
bù. Muốn giải quyết tranh chấp về giá đền bù giữa người bị thu hồi đất và cơ
quan chức năng hoặc các nhà đầu tư, thì phải làm sao để người bị thu hồi đất được
đền bù ngang giá với tài sản của họ bị trưng dụng và cuộc sống của họ phải tốt
đẹp ngang hay hơn trước khi bị trưng dụng. Vì giá đất tăng gấp bội sau khi quy
hoạch, nên người bị thu hồi đất cần được chia phần sự chênh lệch giá cả này bằng
nhiều cách khác nhau. Điều cần thiết là nên cấp tốc sửa đổi Luật đất đai để người
dân được quyền sở hữu đất và hạn chế tối đa quyền thu hồi đất của các cấp chính
quyền.
3. Môi trường
xã hội
Xã hội Việt Nam đang bộc lộ nhiều hiện tượng rất đáng quan
ngại. Nổi bật nhất vẫn là hai tật xấu đã được Hội đồng Giám mục Việt
Nam cảnh báo từ năm 2008, đó là gian dối và bạo lực. Chúng không những
phô bày nơi đường phố, trên thương trường và các phương tiện thông tin
đại chúng, mà còn xâm nhập vào công sở và học đường. Dư luận đang bức xúc
vì hiện tượng lạ lùng là tại một số nơi, cơ quan công quyền lại sử dụng bạo lực
phi pháp để giải quyết các khiếu kiện dân sự.
Bên cạnh những tệ nạn đang tác hại xã hội Việt Nam hôm nay,
nhiều người âu lo vì khuynh hướng sống hưởng thụ, chụp giựt, coi trọng
đồng tiền, vô cảm trước nỗi đau của đồng loại… Hiện tượng này chứng tỏ
tình trạng thiếu vắng các giá trị đạo đức nền tảng làm chuẩn mực
cho đời sống xã hội, vì vậy một số người đã cảnh báo về một xã hội
lệch chuẩn hay phi chuẩn.
Tham nhũng đã được coi là đại họa của quốc gia, ngày càng
tinh vi và nghiêm trọng hơn, nhưng cho đến nay chưa một vụ án nào xứng
tầm được đưa ra xét xử để răn đe, làm giảm sút niềm tin của người dân
nơi công quyền.
Các vụ khiếu kiện, chủ yếu liên quan đến đất đai, trong
đó có đất tôn giáo, vẫn tiếp diễn phức tạp và ngày càng trầm trọng, gây
bất an và căng thẳng xã hội. Vụ việc ở Tiên Lãng, Hải Phòng, và Văn Giang,
Hưng Yên, gây xúc động mạnh mẽ trên tất cả những người Việt Nam có tâm huyết,
buộc Nhà nước phải nhìn lại cách giải quyết vấn đề, mà cốt yếu là sửa đổi Luật
đất đai về mặt hạn điền, thời hạn sử dụng đất và giá đền bù…, nếu chưa đi đến
chỗ nhìn nhận quyền tư hữu chính đáng của công dân.
Một yêu cầu cấp bách khác là cần thay đổi lề lối làm việc cửa quyền,
không minh bạch và thiếu chuyên môn của cán bộ. Biểu hiện rõ rệt nhất ở sự áp đặt
của Nhà nước về quan điểm và cách sống trong xã hội, đó là sự phân biệt đối xử
trong chính sách công giữa các cá nhân làm việc cho Nhà nước với các doanh nhân
và người lao động tự do, giữa người dân thành thị và người nhập cư ngoại tỉnh.
4. Lĩnh vực
pháp luật
Hiến pháp và pháp luật của mỗi quốc gia phản ánh tính đặc thù
và cá biệt theo truyền thống văn hóa dân tộc mình, nhưng cũng không vì
thế mà bất chấp những chuẩn mực pháp lý quốc tế. Việt Nam có một hệ thống
pháp luật đồ sộ, nhưng không hiệu quả từ lập pháp đến hành pháp, vì thiếu sự
công khai, minh bạch, và nhất là thiếu sự độc lập về tư pháp.
Việc áp dụng luật pháp chưa nghiêm minh và tùy tiện, nhất là ở cấp
địa phương, đã dẫn đến những oan sai và đôi khi đẩy người dân đến bước đường
cùng. Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định các thủ tục bắt người; vậy mà trong một
số trường hợp, vẫn có các công dân bị bắt sai trái với các quy định của bộ luật
ấy, cũng như với các tuyên ngôn và công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
Việc giam giữ người không qua xét xử được che đậy dưới từ ngữ “đưa
vào cơ sở giáo dục” có thời hạn và áp dụng cho những người bày tỏ sự bất đồng
chính kiến là một hình thức vi phạm quyền cơ bản của con người. Hình thức “giáo
dục” này thực ra là một biện pháp mà thực dân Pháp sử dụng ở nước ta, sau đó được
lập lại bằng Nghị quyết 49/NQ-TVQH ngày 20/6/1961 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
và đã là cơ sở pháp lý cho việc tập trung cải tạo các công chức và quân nhân
chính quyền Miền Nam cũ. Sau này có một chuyển biến tốt đẹp về biện pháp này
khi Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ban hành năm 1989 không sử dụng nó nữa.
Nhưng với Pháp lệnh năm 1995, nó lại được tái lập dưới cái tên hiện nay và được
Pháp lệnh năm 2002 nối tiếp. Hy vọng trong lần ban hành tới về xử lý vi phạm
hành chính, kiểu “giáo dục” ấy sẽ được bãi bỏ.
Căn bệnh trầm kha trong quản lý và điều hành của các cấp chính quyền
chỉ được giải quyết khi Việt Nam xây dựng một Nhà nước pháp quyền thực sự và
hình thành một xã hội công dân năng động. Bất chấp những khó khăn hiện tại, đây
là một xu thế không thể đảo ngược.
5. Biên cương,
hải đảo và chủ quyền quốc gia
Vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, Biển Đông đã một vài
lần nổi sóng. Nhưng trong những năm gần đây, sự căng thẳng đã lên đến mức độ
nguy hiểm. Nhà cầm quyền Trung Quốc một mặt dùng lời lẽ hoa mỹ, với thông điệp
rất êm tai, nhưng mặt khác, các hành động của họ về chủ quyền trên Biển Đông
ngày càng phản ánh rõ rệt chủ trương Đại Hán.
Trong khi đó, bên Việt Nam, phản ứng của Nhà nước xem ra quá
yếu ớt, tạo cớ cho các lực lượng thù nghịch lấn tới. Khó hiểu hơn nữa
là việc chính quyền đã mạnh tay đàn áp các tổ chức và các cá nhân yêu nước phản
đối hành động xâm lược trắng trợn. Thái độ lập lờ, thiếu nhất quán của các nhà
lãnh đạo trong vấn đề phân định lãnh thổ vùng biên giới và bảo vệ chủ quyền ở
Biển Đông đang gây bất bình trong dư luận. Nhiều nhân sĩ và các nhà trí
thức tâm huyết đã lên tiếng cảnh báo những nguy cơ về an ninh quốc gia
do một số dự án cho nước ngoài khai thác bô-xít và thuê đất, thuê rừng.
Mặt khác, các thông tin về lĩnh vực này không đầy đủ, chậm chạp và thiếu
công khai. Điều trước mắt đã xảy ra là “lao động phổ thông” nước ngoài ồ ạt vào
Việt Nam để thực hiện các dự án trên đang gây bất ổn cho xã hội hiện tại và về
lâu dài.
6. Môi
trường sinh thái
Theo dự báo của các cơ quan chuyên môn, Việt Nam sẽ là một trong bốn
nước phải gánh chịu hậu quả nghiệt ngã nhất của biến đổi khí hậu. Nguyên nhân một
phần do tác động của biến đối khí hậu toàn cầu, nhưng một phần khác do
chúng ta thiếu quan tâm đến môi trường sinh thái và tính bền vững trong phát
triển.
Điều đáng quan ngại nhất là chúng ta vụng về và vội vàng trong
khai thác tài nguyên. Những năm gần đây Nhà nước đã cho nước ngoài đầu tư nhiều
dự án có nguy cơ hủy hoại môi trường, thay đổi hệ sinh thái và làm biến đổi khí
hậu: khai thác bô-xit tại Tây nguyên, cho thuê rất nhiều khu rừng đầu nguồn thuộc
18 tỉnh từ Bắc chí Nam, rất nhiều tỉnh đã khoanh biển và bờ biển cho các công
ty ngoại quốc thuê để xây khách sạn, lập bãi tắm hoặc các dự án khác, mà không
quan tâm đến môi trường sinh thái.
7. Vai trò
của Trí thức
Gần 1000 năm trước, cùng với việc thành lập Quốc Tử Giám,
tổ tiên chúng ta đã nhận thức sâu sắc rằng: “Hiền tài là nguyên khí
của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh,
nguyên khí suy thì nước yếu mà thấp hèn” (Bia Văn Miếu).
Điều này vẫn luôn đúng và càng đúng hơn cho kỷ nguyên chất xám, thời
đại của nền kinh tế tri thức hôm nay.
Bỏ ra ngoài hiện tượng gia tăng đột biến số lượng các
tiến sĩ mà chất lượng còn đáng nghi ngại, Việt Nam còn khá nhiều hiền
tài đích thực, những trí thức thực tài và có tâm huyết với nước, với
dân. Chỉ tiếc rằng vai trò của họ chưa được coi trọng, có khi còn bị
gạt ra bên lề hoặc bị kỳ thị, mà nguyên nhân, trong nhiều trường hợp,
chỉ là do sự khác biệt về quan điểm đánh giá hiện thực xã hội
hoặc về tầm nhìn tương lai của Dân tộc. Phải chăng cơ chế Nhà nước bất cập
và chưa đủ mở rộng để thu hút người tài, cũng như chưa cải tổ cho phù hợp với
đòi hỏi của xã hội tân tiến? Bao giờ vai trò của xã hội dân sự được nhìn nhận
và thực sự có cơ hội tích cực góp phần xây dựng đất nước?
8. Giáo
dục và Y tế
Tương lai của Dân tộc tùy thuộc phần lớn vào giáo dục.
Không thể phủ nhận rằng nền giáo dục quốc gia đã sản sinh một số nhân
tài và góp phần vào việc phát triển Đất nước. Nhưng nhìn chung,
trong mấy thập niên qua, nền giáo dục của chúng ta có quá nhiều bất
cập về nội dung, phương pháp dạy và học… Việt Nam đã có nhiều nỗ lực
“cải cách giáo dục” nhưng không đi đến những đột phá thực chất. Vì
sao? Phải đau đớn mà nói rằng vì chúng ta thiếu hẳn một triết lý giáo dục
mang tính nền tảng và chiến lược lâu dài.
Hậu quả thê thảm của thực trạng trên là những gì chúng ta đang
nhìn thấy trước mắt: Gia tăng các tệ nạn khủng khiếp trong học đường, tội phạm
tuổi học sinh sinh viên ngày càng nhiều, gian dối trong thi cử trở thành
bình thường, bằng cấp giả hay nguy hiểm hơn nữa, bằng cấp thật mà kiến thức giả.
Kết quả cay đắng là Đất nước có nguy cơ bị tụt hậu về nhiều phương diện.
Nhờ áp dụng các công nghệ mới, y tế Việt Nam trong thời gian qua
đã đạt được một số thành tựu trong việc khám chữa bệnh và y tế dự phòng. Nhân
viên y tế ngày càng được đào tạo bài bản và có chuyên môn cao hơn. Nhưng do hệ
quả của nền giáo dục nói trên, cũng như khuynh hướng tập trung vào sức khỏe
thể chất và thiếu định hướng y tế toàn diện, nên hệ thống y tế đang bị sa lầy.
Bên cạnh tình trạng quá tải trầm trọng tại các bệnh viện Trung ương và việc
tăng viện phí ảnh hưởng mạnh tới người nghèo, dư luận nói nhiều đến sự vô cảm,
nhũng nhiễu, thiếu trách nhiệm và phẩm chất đạo đức của nhân viên y tế…
Nhà nước đã kêu gọi “xã hội hóa” giáo dục và y tế, thiết tưởng nên
tạo điều kiện để các tôn giáo trong nước được tham gia trực tiếp vào hai lĩnh vực
này.
9. Lĩnh
vực tôn giáo
Trong thời gian qua, nhà cầm quyền đã tạo cơ hội thuận tiện cho
các sinh hoạt tôn giáo, hầu hết các cơ sở tôn giáo bị tàn phá trong thời chiến
tranh đã được trùng tu, nhiều cơ sở mới đã và đang được xây dựng. Tuy nhiên,
qui định pháp luật liên quan đến các tôn giáo vẫn còn nhiều bất cập và
chưa đáp ứng được nguyện vọng của các tín đồ, cụ thể nhất là về tư
cách pháp nhân của các tổ chức tôn giáo. Điểm mấu chốt là các tôn
giáo đã được nhìn nhận, nhưng lại chưa có tư cách pháp nhân, nên không
thể thực thi và bảo vệ các quyền hiến định của mình, như các tổ
chức xã hội và nghề nghiệp khác.
Hiện nay, Nhà nước dự định ban hành một Nghị định “Quy
định chi tiết và biện pháp thi hành một số điều của Pháp lệnh Tín
ngưỡng tôn giáo”, thay thế Nghị định số 22/2005/NĐ – CP ngày 01-03-2005.
Thật đáng hoan nghênh nếu văn bản này được soạn thảo trên tinh thần đổi
mới, thực sự cầu thị để tạo thuận lợi cho tín đồ các tôn giáo được
tự do hoạt động, góp phần vào việc phục vụ đồng bào và bảo vệ Tổ
quốc. Nhưng một số người đang băn khoăn vì sợ văn bản này lại là một bước
thụt lùi, so với Nghị định nêu trên. Câu hỏi nền tảng là bao giờ các công
dân có tôn giáo được đối xử bình đẳng với các công dân khác, theo Hiến pháp và
Dân luật, mà không cần đến một Pháp lệnh Tín ngưỡng tôn giáo nữa?
* * *
Những nhận định trên đây phát xuất từ niềm tin Kitô giáo và trách
nhiệm công dân với ước nguyện góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng một
đất nước phát triển vững bền, dân chủ và nhân ái. Trong vấn đề này, huấn từ của
Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, ngày 27-06-2009, với các Giám mục Việt Nam vẫn là
định hướng căn bản của Ủy ban Công lý và Hòa bình: “Giáo Hội không hề muốn thay
thế Chính quyền, nhưng chỉ mong rằng trong tinh thần đối thoại và hợp tác tôn
trọng nhau, Giáo Hội có thể góp phần mình vào đời sống của đất nước, nhằm phục
vụ tất cả mọi người dân”.
Ngày 15 tháng 5
năm 2012,
kỷ niệm 121 năm
Thông điệp Rerum Novarum (Tân Sự)
ỦY BAN CÔNG LÝ
& HÒA BÌNH / HĐGMVN
http://conglyvahoabinh.org/nhan-dinh-ve-mot-so-tinh-hinh-tai-viet-nam-hien-nay-2012-1912/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét