Đinh Tấn Lực
Lê Bi – 1990 – Tự thân
Năm nhuần, theo lịch tây, chỉ thêm mỗi ngày 29
cho tháng Hai. May thay! Bằng không, tính theo lịch ta, năm nhuần nhồi thêm
nguyên cả tháng, mà như năm nay, đến những 2 tháng Tư. Chết dở, với biết bao
hoài niệm!
Người ta thường nháy mắt pha trò: Bao giờ cho
tới tháng Mười? Lại lắm kẻ nghiêm mặt hỏi: Bao giờ cho hết tháng Tư? Nghe
thoáng cứ như thêm một vết dao cùn cứa thành sẹo mới, trong tim, hàng năm.
Mọi chữ “nếu” đều có cái giá của nó. Có cái có
thể trả ngay bằng tiền tươi. Có cái được trả bằng tương lai (bị nhấn ngược vào
quá khứ) của một dân tộc. Thành ra, mơ rằng “Nếu VN chẳng có 30 tháng
Tư” thì không khác nào nằm mộng “Nếu Kampuchia chẳng có những cánh đồng sọ người”. Song, cứ thử đi (chẳng thiệt đồng xu teng nào
đâu mà ngại), hãy mường tượng thử một bối cảnh khác: “Nếu, sau khi ký Hiệp Định
Paris 1973, VN ta ai về chăm lo nhà nấy, thì mặt mày đất nước bây giờ ra sao nhỉ?”.
* * *
“Mỗi ngày tôi để lại một vạt lo toan, một niềm
khắc khoải”
Hoàng Trần Cương – Dấu vết tháng ngày
Trước tiên, hẳn rằng đã không có “triệu người
vui và triệu người buồn”.
Vui/buồn vẫn đó, vẫn vậy, như vốn hằng phải
có, cả từ những điều nhỏ nhặt trong đời sống, nhưng nhất định là người Việt
không chia phe vui/buồn, trên cùng một biến cố.
Trong suốt hai năm 73-75, đã không có thêm máu
đổ xương rơi. Các nghĩa trang dọc Trường Sơn đỡ chật. Bức tượng đồng Thương Tiếc
ở Biên Hòa vẫn còn nguyên. Một phần quân đội (cả hai bên) buông súng về quê cầm
cuốc, hay vào khu chế xuất cầm chuột vi tính…
Dân số hai miền ắt đã chênh lệch hẳn, bởi chủ
trương “gia đình hai con” tránh nhân mãn (nhân tiện, tránh cả ùn tắc giao
thông) ở miền ngoài; và bởi miền trong “giàu của chẳng bằng giàu con”, lại chẳng
bị “mất tích” gần hai triệu người ngoài biển khơi và hàng chục vạn khác trong rừng
Kăm.
Gần nửa triệu nhân tài người Việt cũng đã chẳng
phải thui thân chột phận nơi rừng sâu nước độc của các trại tù lao cải. Hoặc,
hơn nửa triệu khác đã nghiến răng cắn lợi đóng góp nguồn vốn tri thức để giúp
phát triển các đại công ty … nước ngoài.
Thanh niên VN đã chẳng bị xuất khẩu thành lao
nô trả nợ chiến phí cho Liên Xô và các nước Đông Âu. Cũng chẳng bị Liên Xô xuất
khẩu sang ngăn chận hiểm họa diệt vong dân tộc xứ Chùa Tháp, và tất nhiên, nhờ
vậy, chẳng phải điều quân đón đỡ trận chiến “giáo trừng” của bọn bá quyền
phương Bắc đến long trời lở đất suốt sáu tỉnh dọc biên. Biết đâu chừng đã tránh
nốt được trận bão Gạc Ma.
Phân nửa thác Bản Giốc, nguyên ải Nam Quan, một
phần lãnh thổ dọc biên cùng một phần Vịnh Bắc bộ có thể vẫn không khỏi trở
thành miền đất “lạ”, nhưng ngược lại, giặc Bắc không có lý cớ và quyền lực gì để
chiếm thêm mấy đảo thuộc cụm Trường Sa. Cũng chẳng biết chừng miền trong đã giải
quyết êm đẹp việc thu hồi các đảo thuộc cụm Hoàng Sa.
Những cách biệt khác?
Dựa trên bản phóng chiếu vị trí và khả năng của
miền Nam Việt Nam so với láng giềng trước 1975, có thể nào người ta kể ra đại
loại sự cách biệt trọng một số lãnh vực gần gạnh trước mắt của miền trong:
- Các viện đại học Vạn Hạnh, La San, Hòa Hảo…
sánh vai cùng cấp và ra sức cạnh tranh với viện đại học quốc gia.
- Các giảng viên, giáo sư và giáo viên “biệt
phái” kỳ tổng động viên trong Nam được giải ngũ, tu nghiệp và trả về trường cũ
dạy tiếp.
- Các kỹ sư, cán sự, chuyên viên “biệt phái”
cũng được giải ngũ, tu nghiệp, trả về các ty/sở gốc tái thiết hạ tầng cơ sở
kinh tế cấp tỉnh/thành/quận…
- Các y/nha/dược sĩ từ các quân y viện được giải
ngũ bớt về đời sống dân sự, hiệp lực đẩy mạnh chính sách y tế cộng đồng cho quảng
đại quần chúng.
- Học sinh cấp trung học, cao đẳng, đại học và
hậu đại học đều không phải lo điểm Mác Lê cho kỳ tốt nghiệp.
- Bệnh nhân ở các bệnh viện cũng chẳng phải học
tập văn hóa phong bì trong lúc phải thực diễn đội hình cá hộp.
- Báo chí không mất 700 tờ đăng cùng bài xã luận,
hay cùng bản tin, ngày qua ngày, tháng qua tháng, năm qua năm…
- Sách in không nhất thiết phải đồng hướng tiến
vươn lên Lỗ Tấn hoặc tuột xuống Sợi Xích.
- Phim ảnh miệt trong có lẽ thích Hollywood
hơn, và chẳng cần quanh quẩn tới thuộc lòng những Tam quốc diễn nghĩa (三国演义 – *Sān Guó Yăn Yì*) 1994 tới Tam Quốc Chí 2010; hay Hồng
lâu mộng (紅樓夢) 1987 tới Hồng lâu mộng 1996…
- …
* * *
“Mẹ em đây người dân công tải đạn
Mẹ em đây người nữ cứu thương
Cha em đây giữa chiến trường
Mặt đen khói đạn, chặn đường giặc lui”
Tố Hữu – Em bé Triều Tiên
Dễ mường tượng (và có nhiều xác suất xảy ra)
nhất cho trường hợp mọi bên cùng tôn trọng Hiệp Định Paris 1973, cho dù chưa hẳn
một giải pháp tối ưu, chính là mô thức Nam-Bắc- Hàn
Vẫn dựa trên bản phóng chiếu vị trí và khả
năng của miền Nam Việt Nam so với Mã Lai/Thái Lan/Đài Loan/Nam Hàn trước 1975,
đặc biệt là dựa trên dữ kiện nghiên cứu công phu của cố GS Đặng Phong, trong suốt
chiều dài 1975-2010, thì ngoài những cách biệt cơ bản nói trên, tình hình có thể
còn thêm một số điểm có thể ghi nhận được từ miền trong:
Người Việt không gửi quà về cho thân nhân từ
nước ngoài, mà gửi từ miền trong ra miền ngoài, xuyên qua một quốc gia trung lập
nào đó. Dần dần hình thành một hệ thống chuyển ngân thông qua một cơ quan phi
chính phủ và phi lợi nhuận ở Sài Gòn.
Vùng phi quân sự DMZ tại vĩ tuyến 17, nếu được
Hà Nội đồng thuận, sẽ cùng thành lập một ký túc xá “Vãng Lai/Tao Ngộ” (nếu cần
sẽ do Sài Gòn đài thọ kinh phí), nhằm giúp cho thân nhân hai miền được gặp gỡ
thăm viếng và đỡ đần nhau chính thức/công khai, dưới sự giám sát của chính quyền
cả hai phía.
Không bị phủ chụp bởi bóng râm Trung Nam Hải,
và chẳng hề vướng víu “ơn nghĩa bầu bạn quốc tế” hỗ trợ “đánh Mỹ cho tới người
VN cuối cùng”, miền trong không cần phải có những khu biệt lập của người TQ như
miền ngoài. Ngay cả vùng Chợ Lớn cạnh Sài Gòn cũng chẳng bao giờ trở thành khu
biệt lập gần như tự quản (thông qua hệ thống bang hội) như bây giờ.
Chương trình Cải cách điền địa (1955-1960) đổi
sang Người cày có ruộng (1969-1971 – đệ nhị cộng hòa miền Nam bán công khố phiếu
mua lại 1 triệu rưỡi hecta ruộng của điền chủ rồi chia đều miễn phí cho 800.000
hộ tá điền, tức khoảng 5 triệu nông dân) đã hoàn tất từ 1971, thêm giống lúa Thần
Nông IR3 được canh tác trên gần ba triệu hecta ruộng từ 1972, miền Nam mau
chóng lấy lại danh hiệu Vựa lúa của Đông Nam Á.
Các đồn điền trồng cây kỹ nghệ (mía đường/thuốc
lá/cà phê/cao su… ) đượcphục hồi khả năng sản xuất và chế biến thành phẩm (hãng
lốp xe Châu Bá-Michelin), cùng nhịp với công nghiệp nuôi trồng và biến chế thủy
sản (hợp tác với New Zealand) có nhiều cơ hội chiếm lĩnh thị trường Âu Mỹ từ cuối
thế kỷ 20.
Các kế hoạch thăm dò khai thác dầu hỏa của miền
Nam suốt từ những năm 1963-1973 đã đi vào giai đoạn thu hoạch. VNCH cấp giấy
phép cho sáu tổ hợp công ty dầu lửa được khai thác 13 địa điểm trong một khu vực
82.000 km² (mới chỉ là 16% của thềm lục địa). Tới tháng 10, 1974, hãng Mobil
khoan mỏ Bạch Hổ, tại lô 04-TLD, tìm được dầu dưới độ sâu trên 2,7 km. Ước tính
là vào cuối 1975, sẽ có ít nhất 20 giàn khoan. Vũng Tàu có nhiều xác suất có
nhà máy lọc dầu đầu tiên của VN. Tất cả là của VN, không bị chi phối hay bị buộc
phải hợp doanh bởi Cty Soviet nào.
Các khu kỹ nghệ Biên Hòa/Phong Dinh/Quảng
Ngãi/SONADEZI… và các xí nghiệp đơn lẻ được hỗ trợ tín dụng từ Quốc Gia Doanh Tế
Cuộc/Trung Tâm Khuếch Trương Kỹ Nghệ/Quỹ Tái Thiết Cơ Sở Sản Xuất, đồng thời,
cũng là hướng giải quyết tỷ lệ thất nghiệp và nạn nhân chiến cuộc, nhờ đó thu
ngắn giai đoạn gia công của công nghiệp VN để tiến lên cùng nhịp với Đài Loan,
Nam Hàn từ những năm đầu thập niên 1980s.
Một số trọng điểm chọn lọc trong bản Kế hoạch
kinh tế hậu chiến, do Kinh tế gia David Lilienthal dự thảo, được khai triển, kết
hợp với các quỹ Viện trợ Phát triển (kỹ thuật/ngân hàng/quản trị), đặc biệt nhắm
vào các lãnh vực viễn thông, tàu hỏa, nhiệt điện… sẽ làm nền giúp miền Nam cất
cánh cùng thời với các tiểu hổ Á châu.
Những nhân tố nền tảng cộng hưởng vào tiến
trình đó là nhờ miền Nam đã có sẵn: a) một nền sinh hoạt chính trị dân chủ, dù
còn là non trẻ; b) động lực tư hữu và kinh nghiệm kinh tế thị trường đích thực;
c) một nền báo chí khá tự do và tương đối đáp ứng nhu cầu thông tin của độc giả
và đặc biệt là doanh gia; d) một hướng giáo dục nhân bản, trọng pháp và cầu tiến;
e) một tình trạng tham nhũng còn có giới hạn (nhờ báo chí và luật pháp); g) sớm
áp dụng các tiến bộ kỹ thuật Tây phương; h) sớm kinh qua mô hình kinh tế dịch vụ
(chiếm hơn phân nửa GDP 1973; i) một hãng hàng không dân dụng đã có những đường
bay quốc tế; k) một hệ thống đường bộ và đường thủy khá tốt; l) một hệ thống
công đoàn độc lập hoạt động theo tiêu chuẩn Âu Mỹ; m) những hội và hiệp hội
ngành nghề tự lập tự quản sinh hoạt có hiệu quả…
Mặt khác, miền Nam đã có sẵn 4 yếu tố quan trọng:
1. Một dàn chuyên viên vi tính (bộ Giáo dục/bộ
Tổng tham mưu/bộ Tư lệnh Hải quân) từ thời IBM mainframe S360-67 chạy bằng CPU
IBM2030 trên OS/VS1 với hệ nhập dữ kiện đầu vào bằng thẻ đục lỗ (Herman
Hollerith punch cards), đầu ra băng từ IBM 2401 (to bằng cái tủ lạnh), sử dụng
hệ mẫu tự EBCDIC và các loại ngôn ngữ vi tính căn bản Assembler, Basic, Pascal,
Fortran, RPG, Cobol, online CICS…;
2. Một đội ngũ hàng vạn sinh viên du học hàng
năm nhiều ngành nghề ở các nước tân tiến (Âu/Mỹ) và cả chương trình Colombo
(Australia/New Zealand). Với nhịp độ đó, nhân suốt chiều dài 39 năm gộp lại và
đào tạo thêm trong nước, tỷ lệ chuyên viên kỹ thuật cao của VN không thể kém
hơn Nam Hàn/Đài Loan… và có khi đuổi kịp Nhật Bản (như Nam Hàn đang đạt, nhân
cơ hội 2 thập niên đình động của Nhật).
3. Một hãng xe LaDalat-*Citroën*, đi vào hoạt
động cùng thời với Hyundai Motor của Nam Hàn;
4. “Đôi khi ta thấy trong cùng một quốc gia có
sự phối hợp giữa tài nguyên phong phú, một hệ thống hành chính có quyết tâm với
những chính sách kinh tế hợp lý một dân tộc thông minh, khéo léo, và hết sức dẻo
dai, với một khả năng cố gắng bền vững, một quyết tâm mãnh liệt và tha thiết bảo
tồn tự do của mình… Khi có một kết hợp như vậy, như hiện đang có ở Việt Nam,
thì chỉ cần một nguồn tài chính từ ngoài vào làm vai trò tác động, để nối kết tất
cả những yếu tố này lại với nhau thì có thể có những kết quả thật là xuất sắc”.
Đại sứ Martin – 1973 – trả lời phỏng vấn US
News & World Report
Với ngần đó ưu thế, người ta không ngại ngoa
ngữ khi bảo rằng danh sách các tiểu hổ châu Á vào cuối thế kỷ 20 hẳn phải có
thêm VNCH.
Nghĩa là, Sài Gòn vẫn vang danh Hòn ngọc Viễn
đông.
Nghĩa là, giờ này, cạnh tranh với Asus Zenbook
hẳn đã có VietBook; với Acer Iconia Tab ắt có VietTab; với Samsung Galaxy Note ắt
có VietNote; với Toyota Innova biết đâu đã có LaDalat Prenn v.v…
* * *
“Không ai có thể sống an lành với một đất nước
chia đôi”
Wim Winders – 1986 – Tác giả cuốn phim quay
lén Những Đôi Cánh Ham Muốn (về đời sống Đông Bá Linh, 3 năm trước khi bức tường
ô nhục sụp đổ)
Cũng không khó mường tượng, nhưng chẳng ai dám
nói biết rõ xác suất khả thi cao thấp ra sao, là trường hợp hai miền Việt Nam,
sau vài thập niên chân thật gìn giữ những cam kết trong hiệp ước Paris 1973, đã
thống nhất theo mô thức Đông Đức – Tây Đức.
Giả thiết Sài Gòn đạt được vị thế tiểu hổ châu
Á như nói trên.
Giả thiết Hà Nội không cực đoan và hiếu chiến
như Bình Nhưỡng.
Giả thiết Hà Nội bước cùng nhịp với Nam Vang/Vạn
Tượng, và đi trước La Habana một bước.
Giả thiết tình hình miền ngoài có một số “đổi
mới”, nghĩa là mọi thứ thực tiễn gần điểm chốt sẵn sàng (như hiện giờ), chỉ cần
bỏ cái đuôi “định hướng XHCN”, thì xác suất “Việt Nam thống nhất như nước Đức”
đó phải được coi là khá cao.
Chao ôi! Phải biết vị thế của VN trong ASEAN bảnh
nào có kém gì Đức trong EU.
Và đố có thằng hàng xóm “lạ” nào dám ho he càn
rỡ!
* * *
Tiếc thay.
Thực tế ngược hẳn.
Nhà thơ Lê Bi, như được trích ở dòng đầu bài,
hoàn toàn đúng, nhưng chưa đủ. Có những vô ích (chen lẫn vô học/vô hậu/vô lối
và lắm thứ vô duyên khác nữa đã) làm nên lịch sử. Nó cào bằng miền Nam, cả kinh
tế, chính trị, xã hội, lẫn tính/tình người, cho bằng miền Bắc muôn năm vung tay
dậm chân hô hào tiến lên XHCN.
Tiếc thay.
Lịch sử không cho lật ngược trang, mà chỉ
đòi/đợi những con người dám đứng lên/bước tới.
Bởi, đã 2012, đã quá trễ cho chuyến tàu thần
long mãnh hổ bên mép Thái Bình Dương.
Chỉ mong là không một ai phải chép miệng/thở
dài lần nữa vào những năm 2022 hay 2032, rằng, giá mà lãnh đạo Hà Nội tỉnh giấc,
dám đặt tương lai đất nước và dân tộc lên trên chính mình hay những biệt thự
dát vàng có vườn rau sạch hoặc những nhà thờ họ nguy nga… từ thời 2012…
“Vì đã nghe ra từ xương máu muôn dân
Là thương cả bốn ngàn năm đang cùng bước tới
Những bước hài hòa từ một xuất xứ lương tâm”
Lê Bi – 1982 – Sử mai
*28-04-2012 – *Kỷ niệm tròn 56 năm lễ hạ cờ
Pháp lần cuối tại phủ Cao Ủy Sài Gòn trước khi rút hết quân đội thực dân về nước.*
Đinh Tấn Lực
http://nguoivietboston.com/?p=7551
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét