Blog
Người lót gạch
Vấn
đề an ninh cho Biển Đông không phải đến bây giờ mới dặt ra gay gắt. Nhìn lại, từ
gần 40 năm qua, Biển Đông vẫn không ngừng dậy sóng - những cơn sóng từ bản chất
đã mang tính cố hữu, nhiều khi bất thường và xô bồ về tranh chấp chủ quyền lãnh
hải, thềm lục địa.
Tính
từ đầu những năm 1990, sau vụ Trung Quốc (TQ) tấn công Trường Sa, tình hình Biển
Đông bắt đầu căng thẳng trên một bình diện khác thường, ngày càng nhiều diễn biến
phức tạp hơn.
Các nước ASEAN đưa ra yêu cầu cần có biện pháp hữu hiệu để sớm ngăn chặn tình trạng an ninh bất ổn ở vùng này. Phải mất 10 năm khởi động, không ít tranh cãi, vận động, mãi đến ngày 4-11-2002, "Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông" (DOC) mới được Trung Quốc ký với các nước ASEAN.
Các nước ASEAN đưa ra yêu cầu cần có biện pháp hữu hiệu để sớm ngăn chặn tình trạng an ninh bất ổn ở vùng này. Phải mất 10 năm khởi động, không ít tranh cãi, vận động, mãi đến ngày 4-11-2002, "Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông" (DOC) mới được Trung Quốc ký với các nước ASEAN.
Nhưng, thật trớ trêu trong suốt 10 năm qua, việc
thực thi DOC xem ra vẫn không đem lại hiệu quả gì, mà trái lại, tình hình Biển
Đông ngày càng căng thẳng hơn, chủ yếu vẫn do phía TQ gây ra cho các nước trong
khu vực, nhất là 4 nước có lãnh hải tiếp giáp với Trung Quốc, trong đó Việt Nam
là ở gần và trực tiếp nhất.
Hội Nghị ASEAN lần thứ 20 tại Phnom Penh (CPC) |
Trở lại lịch sử một chút để nhìn vào
bản chất vấn đề: Từ nhiều đời nay TQ vẫn chưa bao giờ từ bỏ ý định nhòm ngó cả
vùng Đông Nam Á (ĐNÁ) bằng ánh mắt thèm thuồng của tham vọng bành trướng, bá
quyền, mộng bá chủ thiên hạ. Qua nhiều đời “thiên mệnh triều chính”, cả nghìn
năm xua quân đánh chiếm Việt Nam, dùng sức đông người và mọi thủ đoạn xảo quyệt
xâm lược, áp đặt cai trị, TQ đã đặt dân tộc VN vào cảnh nghìn năm Bắc thuộc cơ
nhục. TQ chỉ mong thu phục VN về lãnh thổ, như một tỉnh, một vùng dân tộc thiểu
số phía Nam của TQ. Nhưng, lịch sử đã chứng minh, ý đồ nối đời này của TQ, dù đã “Nam chinh Bắc phạt”
nhiều nơi, nhưng lại bị vấp ngay phải một dân tộc có ý chí mạnh mẽ do lòng yêu
nước và chí anh hùng. Cả nghìn năm, với trăm phương nghìn kế, nhưng TQ vẫn
không thể khuất phục được mảnh đất ở Đông Dương bé nhỏ này. Đến tận thế kỷ thứ
18-19, đời nhà Thanh (Thanh triều, đế quốc Mãn Châu, 1616-1912), TQ vẫn không từ
bỏ dã tâm biến VN thành thuộc địa của TQ. Nhà Thanh bị Nguyễn Huệ đánh tơi bời,
thua đau đớn vào đầu xuân Kỷ Dậu 1789. Bị thất bại thảm hại và nhục nhã, giặc
Thanh xâm lược càng tức tối cực độ, càng nuôi lớn tham vọng, rắp tâm trở lại xâm lược VN lần thứ 2.
Nhưng
ở vào thời đó, các nước đế quốc, tư bản phương Tây mở rộng thị trường và mưu
chiếm thuộc địa sang Châu Á. Dù không muốn, nhưng vua Thanh buộc phải tiếp đón
các thương gia, rồi chuyên gia người Anh. Từ ấy, nhà Thanh phải đối phó với Anh
quốc, rồi Nga, Pháp, Nhật, dẫn tới suy yếu dần, mất cơ hội tấn công xâm lược
VN. Cuối cùng, đang giữa lúc suy vong, do Cách mạng Tân Hợi mà Thanh triều bị sụp
đổ với sự thoái vị của vua Phổ Nghi, kết thúc gần 300 năm tồn tại đế Đại Mãn
Thanh nổi tiếng hung hãn, hùng khí một phương trời. Năm nay vừa đúng 100 năm
ngày sụp đổ của vương triều nhà Thanh,
thì lại xảy ra nhiều sự kiện, điểm nóng ở khu vực làm dậy sóng Biển Đông.
Từ đầu thế kỷ thứ 20, do bối cảnh của
TQ và do xu thế cách mạng thực dân hóa trên toàn cầu trỗi lên mạnh mẽ, VN lại bị
Pháp xâm chiếm, nên cho dù vẫn cháy bỏng ý đồ thôn tính VN, làm bàn đạp chiếm
Đông Dương và các nước ĐNA, thực hiện mưu đồ bành trướng phương Nam, nhà cầm
quyền TQ cũng buộc phải gác lại vì bản thân TQ đang bị các nước siêu cường xâu
xé. Cho đến năm 1955, sau khi bị thất bại thảm hại ở Điện Biên Phủ, quân Pháp
rút khỏi Đông Dương theo Hiệp định Genève. Ngay sau đó, không bỏ lỡ cơ hội, năm
1956, TQ cho xua quân chiếm một số đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa. Nhưng ngay
sau đó, Mỹ lại nhảy vào can thiệp Đông Dương, dựng lên chính quyền bù nhìn tay
sai Ngô Đình Diệm ở miền Nam VN rồi đưa quân sang xâm lược VN. Tình thế ấy khiến
TQ bị chưng hửng, không thể lấn sâu tham vọng, ý đồ của mình.
Khi
còn đế quốc Mỹ ở miền Nam VN, dù TQ có muốn Biển Đông đến mấy cũng không thực
hiện được ý đồ gì vì hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm dưới sự quản lý của
chính quyền miền Nam, được Mỹ bảo trợ. Khi quân đội Mỹ bắt đầu rút khỏi VN
tháng 1-1973 theo Hiệp định Paris, thì tháng 5 và tháng 7 năm đó, TQ đã nhiều lần
cho tàu ngư chính và cả tàu hải quân trinh thám, thăm dò vùng quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa và chúng đã bị hải quân Việt Nam Cộng hòa xua đuổi. Từ tháng
1-1974, lợi dụng khi VN đang dồn sức chuẩn bị Chiến dịch tổng tấn công đánh cho
ngụy nhào để giải phóng dân tộc, TQ đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa. Việt Nam vừa
giành được thắng lợi thống nhất đất nước, TQ đã dựng lên chế độ Khmer Đỏ ở
Campuchia, rồi cho Khmer Đỏ đánh chiếm đảo Thổ Chú phía biển Tây Nam của VN,
đưa bắt hết hơn 500 người dân đảo Thổ Chu về đảo Cô Tang giết sạch. Rồi chế độ
diệt chủng Polpot bị VN dẹp tan.
Tàu đánh cá của ngư dân VN bị đánh đắm |
Cay
cú do bị VN làm cho thất bại một âm mưu chiến lược lớn muốn diệt chủng người
Khmer rồi chiếm Campuchia đưa người TQ vào thay thế, TQ đã nổi cơn hùng hổ “dạy
cho VN một bài học” gây ra cuộc chiến xâm lược VN trên toàn tuyến biên giới
phía Bắc, một cuộc chiến tranh ngắn, nhưng khốc liệt và đầy tai tiếng về Chủ
nghĩa xã hội (!?). Mục tiêu của Trung Quốc buộc Việt Nam rút quân khỏi
Campuchia không thành, nhưng cuộc chiến để lại hậu quả lâu dài đối với nền kinh
tế VN và quan hệ căng thẳng giữa hai nước. Sau khi bị thua ở biên giới phía Bắc,
TQ quay ra chiếm các đảo.
Trong
những tháng đầu năm 1988, Hải quân Trung Quốc cho quân chiếm đóng một số bãi đá
thuộc khu vực quần đao Trường Sa, chiếm giữ Đá Chữ Thập (31-1), Châu Viên
(18-2), Ga Ven (26-2), Huy Gơ (28-2), Xu Bi (23-3). Hải quân Việt Nam đưa vũ
khí, khí tài ra đóng giữ tại các đảo Đá Tiên Nữ, Đá Lá, Đá Lớn, Đá Đông, Tốc
Tan, Núi Le, bước đầu ngăn chặn được hành động mở rộng phạm vi chiếm đóng của hải
quân Trung Quốc ra các đảo lân cận. Phía Việt Nam dự kiến Trung Quốc có thể chiếm
thêm một số bãi cạn xung quanh cụm đảo Sinh Tồn, Nam Yết và Đông kinh tuyến
1150.
Căn
cứ vào tình hình xung quanh khu vực Trường Sa, Hải quân Việt Nam xác định: Gạc
Ma giữ vị trí quan trọng, nếu để hải quân Trung Quốc chiếm giữ thì họ sẽ khống
chế đường tiếp tế của Việt Nam cho các căn cứ tại quần đảo Trường Sa. Vì vậy,
thường vụ Đảng ủy Quân chủng hạ quyết tâm đóng giữ các đảo Gạc Ma, Cô Lin và
Len Đao...
Cũng
từ tháng 1-1988, TQ mở chiến dịch đánh chiếm một số đảo ở Trường Sa thuộc chủ
quyền của VN, xây căn cứ trên đảo Chữ Thập, rồi từ đó liên tục có rất nhiều hoạt
động quấy rối và xâm phạm chủ quyền lãnh hải của VN và các nước khác trong khu
vực. Từ khi bị hải quân TQ chiếm đóng
trái phép và xây dựng căn cứ ở Bãi Cỏ Rong thuộc quần đảo Trường Sa vào
tháng 3-1995, Philippines đã nâng độ cảnh giác với TQ lên mức cao. Nhiều nước
khác cũng buộc phải thay đổi cách nhìn về TQ. Trước những nguy cơ uy hiếp và
xung đột bằng vũ lực thế nên, năm 1991, các nước ĐNÁ mới đặt ra yêu cầu cần có
cam kết "DOC", khởi động suốt
10 năm mãi đến năm 2002, do sức ép từ nhiều phía, TQ mới chịu ký Tuyên bố cam kết
"DOC" mặc dù đây chỉ là một văn kiện không có tính ràng buộc về pháp
lý.
Tháng
11-2002, nhân dịp Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 8 nhóm họp tại CPC, Trung
Quốc cùng các bên trong khối ASEAN ra “Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển
Đông” (viết tắt là DOC). Đây là văn kiện chính trị đầu tiên mà ASEAN và Trung
Quốc đạt được có liên quan đến vấn đề Biển Đông và được coi là bước đột phá
quan trọng trong quan hệ ASEAN-Trung Quốc về vấn đề Biển Đông. Việc ra tuyên bố
"DOC" là kết quả nỗ lực của các nước ASEAN, đặc biệt là của bốn nước
liên quan trực tiếp tranh chấp ở quần đảo
Trường Sa trong việc duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông.
Ngư Chính 311 của TQ |
Tính
từ năm 2002 đến nay, mặc dù đã ký cam kết DOC, nhưng trong 10 năm qua, theo thống
kê, TQ đã có gần 200 lượt tàu đánh cá, tàu ngư chính và cả tàu hải quân xâm phạm chủ quyền lãnh hải của VN. Tháng
12-2004, TQ bắt 80 ngư dân VN đang đánh cá trên vùng biển Bắc Bộ thuộc lãnh hải
VN. Trắng trợn và liều lĩnh hơn, ngày 8-1-2005, hai tàu tuần dương Trung Quốc
bao vây và bắn xối xả vào các tàu đánh cá Việt Nam làm 9 ngư dân Thanh Hóa bị
thiệt mạng, 7 người bị thương và 8 người khác bị TQ bắt. Và liên tục năm nào TQ
cũng cho tàu các loại xâm phạm vùng lãnh hải VN và các nước có vùng biển tiếp
giáp, với hành động ngày càng công khai, trắng trợn hơn, không hề tôn trọng DOC
như đã cam kết.
Có
thể nói rằng dù cho Tuyên bố cam kết DOC đã quy định rõ như vậy, nhưng ngay sau
khi đã ký thì chính TQ đã không hề quan tâm thực hiện đúng cam kết, mà còn tiếp
tục gây ra nhiều sự bất ổn định cho vùng biển này như đã nêu trên. Vì thế, nay
các nước ASEAN lại phải bàn nhau, xét thấy cần sớm có một "COC", tức
là phải thêm những ràng buộc pháp lý để buộc TQ và các nước trong khu vực phải
thực hiện tốt hơn, có hiệu quả hơn đối với "DOC". Nhưng, kể cả sau
này TQ có ký "COC" đi chăng nữa, liệu có gì để “ràng buộc” được con rồng
đang cố vũng vẫy để khuynh loát trên biển Đông hay không?
Ngay
như dự thảo cho nội dung "COC" do báo Jakarta Post (Indonesia) dẫn ra
8 nội dung chính của văn bản dự kiến này, ai cũng thấy câu chữ còn chung chung,
trùng lặp và thiếu tính pháp lý khó mà “ràng buộc” được ai. Thí dụ như các nội dung sau:
-
Việc thực hiện "DOC" cần tiến hành từng bước phù hợp với các điều khoản
trong "DOC". Chỗ này có phải chăng là ý của TQ cố trì kéo và phủ nhận
"DOC" hay không? Đã có "DOC" nhưng 10 năm nay không thực hiện,
nay tại sao lại “tiến hành từng bước” như một cách bàn lùi? Các bên tham gia
"DOC" sẽ tiếp tục thúc đẩy đối thoại và tham vấn theo tinh thần của
"DOC" là gì ?.
-
Trong nội dung dự thảo "COC" còn thể hiện: Việc tiến hành các hoạt động
hoặc các dự án đã được quy định trong "DOC" cần được xác định rõ
ràng.
-
Việc tham gia các hoạt động hoặc các dự án cần được thực hiện trên cơ sở tự
nguyện.
Hai chữ “tự nguyện” này liệu có phải do TQ xen được ý vào nội dung cần dự thảo "COC"? Rồi tiếp theo là Các hoạt động ban đầu được cam kết trong phạm vi "DOC" cần phải là các biện pháp “xây dựng lòng tin”. Quyết định thực hiện các biện pháp hoặc các hoạt động cụ thể của DOC cần dựa trên sự đồng thuận giữa các bên liên quan và tiến tới hiện thực hóa COC. Trong quá trình thực hiện các dự án đã được thỏa thuận, khi cần thiết, sẽ trưng cầu sự phục vụ của các chuyên gia, các nhân vật kiệt xuất nhằm cung cấp nguồn lực cụ thể đối với các dự án liên quan. Tiến trình thực hiện các hoạt động và các dự án đã được thỏa thuận trong "DOC" sẽ được thông báo hàng năm cho Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN-Trung Quốc...
Hai chữ “tự nguyện” này liệu có phải do TQ xen được ý vào nội dung cần dự thảo "COC"? Rồi tiếp theo là Các hoạt động ban đầu được cam kết trong phạm vi "DOC" cần phải là các biện pháp “xây dựng lòng tin”. Quyết định thực hiện các biện pháp hoặc các hoạt động cụ thể của DOC cần dựa trên sự đồng thuận giữa các bên liên quan và tiến tới hiện thực hóa COC. Trong quá trình thực hiện các dự án đã được thỏa thuận, khi cần thiết, sẽ trưng cầu sự phục vụ của các chuyên gia, các nhân vật kiệt xuất nhằm cung cấp nguồn lực cụ thể đối với các dự án liên quan. Tiến trình thực hiện các hoạt động và các dự án đã được thỏa thuận trong "DOC" sẽ được thông báo hàng năm cho Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN-Trung Quốc...
Theo
ông Vũ Mão, nội dung chính cho "COC" như vậy thì với những gì
đạt được còn quá nhỏ so với mong đợi và nhu cầu cần thiết nhất. Nếu
như đây là một dạng "thông tư hướng dẫn" dưới luật thì không hiểu ASEAN và Trung Quốc sẽ phải vận dụng
ra sao để triển khai "DOC" trên thực tế, giải quyết được xung độ mỗi
ngày đang ngày một gia tăng giữa các bên tranh chấp (TQ-Philippines, VN...) ở
Biển Đông, khi những điểm đạt được rất mơ hồ và không đầy đủ. Rõ ràng là vẫn
chưa giải quyết những bất đồng vẫn còn đó, chưa được giải quyết một cách cơ bản.
Nếu
nội dung chính của "COC" như vậy, chưa nói đến một cơ chế giải quyết
xung đột, thậm chí, ngay cả quy định về phạm vi hiệu lực của "DOC" vẫn
còn bị để ngỏ. Tóm lại, cả "DOC" và những nội dung như thế này của
COC nêu trên xem ra vẫn không đủ hiệu lực để ngăn ngừa các hành vi cố tình gây
rắc rối làm phức tạp, căng thẳng tình hình của các bên trên Biển Đông vốn đã
nhiều rất phức tạp và ngày càng phát
sinh nhiều tình huống khó lường trước do chủ trương đẩy mạnh việc khẳng định
lãnh hải của TQ là theo hình chữ U vô căn cứ. Nếu như "DOC", dù không
đạt được yêu cầu của tính ràng buộc pháp lý, nhưng là một cam kết chính trị của
các quốc gia liên quan, thì văn bản này, về thực chất, sẽ chỉ có tác dụng để viện
dẫn khi cần thiết, nhằm chứng minh khả năng tự đối mặt và giải quyết vấn đề của
mình, cho giữa Trung Quốc và ASEAN. Mà những viện đãn ấy cùng không đem lại gì
đáng kể. Dù vậy, hành trình từ "DOC" đến "COC" có vẻ được xem là một nỗ lực mới theo tình thế của
các nước ASEAN, còn hiệu quả thực chất của nó hẳn còn xa tít tắp.
Hải Quân Trung Quốc Bắt ngư dân VN |
Theo Hãng tin Reuters, ngay sau hôm vừa bế mạc
Hội nghị ASEAN lần thứ 20 tại Phnom Pênh, trên Đài phát thanh Trung Quốc, ông Đặng
Tiểu Cương, phó giám đốc sở Du lịch tỉnh Hải Nam nói: “Kế hoạch tổng thể đang
được soạn thảo và một kế hoạch cụ thể cũng đang được tiến hành; chúng tôi hy vọng
là trong năm nay, chúng tôi có thể mở du lịch đường biển tới quần đảo Hoàng
Sa”. Phát biểu trên đây của ông Đặng đã được nhiều cơ quan truyền thông của
Trung Quốc đăng lại, kể cả Trung Quốc Tân Văn Xã, hãng thông tấn lớn thứ hai,
sau Tân Hoa Xã. Báo chí Trung Quốc cho biết là trong tháng Ba vừa qua, một quan
chức cấp cao, ông Vương Chí Phát, thứ trưởng, phó chủ nhiệm Cơ quan Du lịch Quốc
gia Trung Quốc cũng đã tuyên bố: “Phát triển du lịch quần đảo Hoàng Sa sẽ giúp
chúng ta bảo vệ biên giới và chứng tỏ sự hiện hữu về chủ quyền của chúng ta ở
đây”.
Trước
thềm Hội nghị Bác Ngao ở Hải Nam, Phó thủ tướng Việt Nam Hoàng Trung Hải đã gặp
phó thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường. Một lần nữa Hà Nội yêu cầu Bắc Kinh trả
tự do “ngay lập tức và vô điều kiện” cho 21 ngư dân cùng hai tàu cá Việt Nam hiện
đang bị phía Trung Quốc bắt giữ. Hà Nội cũng đòi Bắc Kinh hủy cuộc đua thuyền tại
Hoàng Sa. Nhưng TQ vẫn chưa có một thái độ nào về những lời yêu cầu chính dáng
của VN.
Vì
vậy, suy rộng ra cho thấy rằng, trước những thái độ và hành động đó của TQ, dù
có "DOC", "COC" hay gì đi chăng nữa thì cũng khó ổn định được
tình hình liên tục bất ổn và nhiều nguy cơ mất an ninh khu vực Biển Đông. Nếu
như các nước ASEAN không đoàn kết, không có một lập trường chung, TQ có thể sẽ
dùng các thế mạnh của mình, với chủ đích chỉ chấp nhận gặp gỡ, đối thoại song phương và dùng chiến thuật “bẻ từng chiếc
đũa” nhằm đạt được mục đích phân hóa, xé lẻ các nước ĐNA, “chia để trị” bằng sức
mạnh mềm hoặc vũ lực, món truyền thống từ lâu đời của TQ.
Và
nếu như lần này, sau khi đã cho tiền và hứa tăng cường đầu tư vào CPC, TQ đã “dắt
mũi” được đương kim Chủ tịch ASEAN không đưa vấn đề Biển Đông ra Hội nghị
ASEAN-20. Nay nếu như mong muốn của TQ thành hiện thực, với sự tìm mọi lý do
quanh co, chần chừ, đặt điều kiện, "Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông"
(COC) cũng sẽ chẳng tiến bộ hơn được bao nhiêu so với "Tuyên bố cam kết ứng
xử trên biển Đông" (DOC) hiện tại.
Dư
luận cho rằng, khi đưa ra bàn thảo để ra được COC, chắc chắn TQ sẽ tránh các vấn
đề, các câu chữ mang tính “quy tắc”, có giá trị ràng buộc, và có lẽ vì thế mà
COC cũng bị tắc luôn (!?). Tranh chấp trên biển Đông vẫn sẽ tiếp tục căng thẳng,
hòa bình trên biển Đông vẫn sẽ mong manh. Do vậy, các nước ASEAN cần phải cùng
nhau hành động. Một thực tế cần nhận rõ và luôn luôn thường trực trong ý thức
cùng như hành động của các nước ĐNÁ rằng: Chừng nào TQ chưa thu phục được các
nước ĐNA về dưới tầm ảnh hưởng và lệ thuộc vào mình như ý đồ từ lâu đời nay,
thì các nước ĐNA chưa thể yên ổn được với TQ. Với thói quen nói mà không làm,
nói một đằng làm một nẻo, nói ngoài miệng nhưng trong lòng rắp tâm làm trái, dù
đã ký nhưng không thực hiện, lại thiếu trung thực, thẳng thắn, không cởi mở như
TQ thì mọi nỗ lực cách nào cũng không thể ràng buộc được pháp lý với TQ là điều
quá bi quan ?.
Các đại biểu tham dự phiên khai mạc Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 20 |
Ngoài
ra, việc tìm kiếm một tiếng nói chung cũng là một cơ hội để thúc đẩy sự tương hỗ
và đoàn kết giữa các nước ASEAN. Hơn thế
nữa nếu các nước trong khu vực ĐNA không đoàn kết lại, TQ sẽ gây áp lực hay
tranh thủ các nước ASEAN khác đứng ngoài tranh chấp. Các nước này có thể không
đứng về phía các nước ASEAN khác. Để khắc phục được điều này, các nước trong
tranh chấp cần tính đến những bước đi chiến lược, vừa khôn khéo những cũng cần
kiên quyết trong đối ngoại, đối thoại. Và tốt nhất là việc soạn thảo đi đến thống
nhất chất lượng nội dung cũng như đàm phán "COC" nên được đưa ra
khuôn khổ Thượng đỉnh Đông Á, thay vì chỉ trong khuôn khổ ASEAN với Trung Quốc.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nói: “Việt Nam chúng ta khẳng định có đủ căn cứ về pháp lý và lịch sử khẳng định rằng, quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chúng ta đã làm chủ thực sự, ít nhất từ thế kỷ thứ 17. Chúng ta đã làm chủ khi hai quần đảo này chưa thuộc bất kỳ một quốc gia nào. Lập trường nhất quán của chúng ta là quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chúng ta có đủ căn cứ lịch sử pháp lý để khẳng định điều này. Nhưng, chúng ta chủ trương đàm phán, giải quyết đòi hỏi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp hòa bình. Chủ trương của chúng ta phù hợp với hiến chương của Liên Hợp Quốc; Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển 1982 và Tuyên bố cam kết DOC về ứng xử các bên trên Biển Đông”.
Bùi Văn Bồng
4/2012
hebwarper.net/ww/dttl-nguoilotgach.blogspot.com/2012/04/tu-doc-en-coc-roi-con-gi-nua.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét