Lần
đầu tiên tôi chạm tay đến ngày 30-4 là khi tôi gặp nhiều nhà báo Mỹ quay trở lại
Việt Nam – cuộc đoàn tụ 35 năm sau cuộc chiến – và phỏng vấn từng người một
trong họ.
Ông
Neal Ulevich – một nhà báo của AP tại Sài Gòn – già nua, cầm vụng về những cuốn
giấy tròn, có ảnh của tất cả những ai ông gặp được trong thời gian ông ở văn
phòng. Phòng của AP tại Sài Gòn nằm trên tòa nhà Eden – bây giờ đã thành tro bụi
– đối diện nhà hát thành phố và có thể dễ dàng nhìn thấy từ Caravelle. Ông nói
với tôi từ cửa sổ Caravelle sang trọng: “Bạn muốn chụp ảnh à? Vậy để tôi đi ra
ngoài, bạn có thể chụp tôi với Eden.” Ông hạnh phúc khi thấy Eden vẫn còn ở đấy.
Ông Neal Ulevick (phải) nhà báo từng đoạt giải ảnh báo chí thế giới – cùng con trai về thăm Sài Gòn sau nhiều năm từng đi viết ở đây. |
Tôi
gặp Edith Lederer, Carl Robinson, Perry Dean Young, Don North, Jacques Leslie.
Tôi đặc biệt nhớ Perry. Ông đã tặng tôi
một quyển sách, kể về nỗi đau của ông khi 2 người bạn ông Dana Stone và Sean
Flynn. Nhưng trên hết, ông ngồi một cách rất cô đơn trong phòng khách sạn, và
nói với tôi rằng ông rất sợ cuộc chiến đó, sợ đến mức phải bỏ đi, và không quên
được người bạn mình đã mất xác ở Đông Dương.
Một thời gian sau đó, tôi gặp bà mẹ Bùi Thị Mè. Bà là người phụ nữ đẹp thật đẹp. Bà tinh anh, thông minh và dịu dàng. Bà thích mặc áo bà ba đen. Cứ sau mỗi năm gặp lại, bà lại yếu hơn. Bà chính là người đã mất cả 3 người con trai trong chiến tranh Việt Nam. Bà cũng là người đã thuyết phục ông Dương Văn Minh, dựa vào sự cảm mến ông dành cho bà và những lo lắng về cuộc tắm máu cuối cùng, để tiến đến đầu hàng vô điều kiện. Bà chưa kể cho tôi nghe về chiến tích, chiến công của bà bao giờ. Nhưng bà hay nhắc đến Ông Minh sẵn sàng đối thoại, nhắc đến con trai, nhắc đến cái tin con chết đến dồn dập mấy ngày liên tiếp nhau. Rồi bà khóc. Bà bảo: Tối nào bà đi ngủ cũng thấy 3 con trai nhìn bà từ ảnh trên tường.
Mỗi
năm lớn hơn, tôi lại nhìn thấy ngày 30/4 ấy theo một cách khác. Đầu tiên, tôi
hào hứng với cờ hoa, hào hứng như bao đứa học sinh cấp 2, cấp 3, viết 1 bài
phát biểu cảm nghĩ cho trường, lớp, đọc to dưới cờ, rồi… được 2 ngày nghỉ học.
Sau đó, tôi cảm thấy hoang mang.
Bà Bùi Thị Mè (trái) từng mất 3 con
trai
trong chiến tranh Việt Nam
|
Có
cái chết nào màu xanh màu đỏ đâu. Có ai thèm nhớ cho cái chết in dấu lên thân
thể người ta bằng súng, đạn, dao găm đâu. Chết là màu đen. Sự đạo đức ở đời là
nhớ người đã chết cho mình cái gì để mình sống tiếp, chứ ko phải vì họ chết nên
ta chà dẫm lên họ gọi tên họ là con thua cuộc anh thắng cuộc.
Rồi
ba mươi mấy năm trôi qua. Cái sự vô tâm đến đáng ngạc nhiên ấy nó phủ lên cả nước
mắt quá khứ. Có bà mẹ nào mất con mà ko đau khổ? Sao không viết về bà mẹ Việt
Nam với bà mẹ lính ngày xưa ở miền Nam này giờ côi cút nghèo khổ ra sao? Hay ai
cũng chỉ cần mẹ để lộng kiếng trang hoàng thêm vào cái tiểu sử công ty là “Phụng
dưỡng mẹ VN anh hùng”, “chăm sóc bà mẹ VN anh hùng”. Mẹ lộng kiếng có cô đơn
không? Mẹ lính nghèo Sài Gòn ngày xưa có đau không? Đời sống sao mà vô tâm thế?
Con chó trên vỉa hè còn biết xót thương con chó già không có miếng ăn mà nhá ra
cục xương nhường cho ăn. Người sao cứ ve đi vẩn lại giữa anh hùng với ko anh
hùng, cộng hòa với cộng sản, lộng kiếng và kết hoa. Còn các mẹ… già cứ già, cô
đơn cứ cô đơn, mất con cứ là mất con – nhưng đời đời trang hoàng lộng lẫy hoặc
đời đời cô đơn quay quắt.
Ông
nhà báo già đến Sài Gòn mấy tháng trời, quay lại còn nhớ Eden, quay lại còn nhớ
tôi gặp anh lính đã cho tôi ăn, dắt tôi ra cánh đồng. Người trong một cõi đất
thì cứ phỉ nhổ vào mặt nhau, gọi tên nhau cộng hòa, cộng sản, treo cờ chửi bới
nhau, lập nick sỉ vả nhau, đua nhau gọi tên chỉ mặt quá khứ theo liều lượng
mình yêu thích.
Tôi
chẳng chờ đợi thông tin công tâm – vì thông tin thời nào mà chả thế, nó được tạo
ra vì người ta thích thế. Nhưng cái hồn nhiên của anh lính Sài Gòn hát nhạc sến
đưa đẩy cô gái nghèo rồi thở than vì ra trận chắc cũng chẳng khác với cái hồn
nhiên của anh Nguyễn Văn Thạc lúc viết nhật kí mà hi sinh đâu. Vì một tham vọng,
sự căm hờn vuông vức và đầy chủ ý, người ta cứ nhìn nhau như “lính chế độ cũ”,
“mấy ông bộ đội già” rồi truyền cả vào lòng của cháu con. Hờn căm ko còn nguyên
si hình dáng thì hóa ra là dị tật bấn loạn. Mù lòa thông tin rồi sinh ra nghi
hoặc thù giận. Chẳng thấy gì ích lợi hay ho trong ấy cả.
Tôi
cũng chẳng hiểu tới cái thời gì rồi mà người ta còn đặt tên trường học là Đuốc
Sáng, dạy tụi trẻ con yêu nước là phải tẩm xăng zô mình như cái anh Tám zô zanh
nào đó. Tôi thì nhớ nhiều cuộc đối thoại với mấy ông già tôi quen, có ông ngồi
kể về cái kệ sách hơn 1000 quyển của gia đình mình được “quyên góp” ra sân xã rồi
thiêu đốt thành tro bụi. Giờ gần 80 tuổi, làm khoa học, mà ông già cứ phải mày
mò mãi mấy quyển sách cũ ở Sài Gòn – trước kia đã có đầy tủ mà thành tro bụi mất
rồi. Rồi giờ ai cũng có thể căng biển “ủng
hộ nạn nhân chất độc da cam” đi làm tiền thiên hạ.
Nhìn quanh nhìn quất, thấy đâu đâu cũng là cái ba
mươi mấy năm ấy mãi mãi chẳng phai mờ. Quẩn quanh hoài. Quẩn quanh hoài. Rồi
cái mớ lằng nhằng này sẽ còn mãi, còn mãi, khi người ta cứ cấu véo lấy thương
đau mà nhai nuốt như món hời, vết vẹo của thằng giang hồ, lên chức, thành quan
vì “từng chiến đấu” rồi cứ tung hê mãi mãi cái hứng thú vô loài của cuộc đau
thương dài hàng chục năm này.
Chẳng
biết vì cái gì. Hay vì cái tham lam của riêng mỗi “hình tượng anh hùng” đằng đằng
sát khí mà mỗi bên hăm hở?
Ko
biết.
Chỉ
thương mẹ Mè, mẹ nói mẹ tối nào đi ngủ cũng nhìn 3 con trai trên vách, thương
ông già Perry Dean Young, chỉ nói đi nói lại mãi, “Tôi sợ” vì mất người bạn
thân không tìm được xác. Người trong cuộc sao chẳng lên giọng, gân cổ gì… như
những ai chẳng mất gì từ cuộc chiến ấy…
30/4.
Tự do đấy!
Khải
Đơn
http://khaidon.wordpress.com/2012/04/23/t%E1%BB%B1-do-c%E1%BB%A7a-thang-t%C6%B0/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét