Trần Hoàng (dịch)
Cách
đây 30 năm, các bộ đội Việt Nam đã tham dự một trận đánh sau cùng rất dữ dội
trong các vùng đồi núi ở Lạng Sơn gần biên giới phía Bắc để đẩy lui quân địch.
Hai bên đã chịu đựng những thiệt hai khủng khiếp, nhưng sau cùng Việt Nam đã
tuyên bố thắng trận.
Mấy
chục năm sau, các mối quan hệ ngoại giao (giữa hai nước Việt Trung) đã và đang
được hồi phục và hai quốc gia nầy, ít nhất là trên công luận, vẫn gọi nhau là bạn
bè.
Kẻ
thù cũ của Việt Nam giờ đây là một nhà đầu tư chính trong quốc gia này, thương
mại giữa hai nước ở mức cao hơn bao giờ hết và nhiều khách du lịch, không phải
là bộ đội, đang đổ dồn vào Việt Nam.
Không,
không phải là những khách du lịch người Mỹ đâu, khách du lịch chính là những
người Trung Quốc. Như một phần của một nỗ lực rất mạnh mẽ để mở rộng ảnh hưởng
chính trị và thương mại trong vùng Đông Nam Á, Trung Quốc đang đầu tư rất nhiều
ở Việt Nam.
Các
công ty Trung Quốc hiện đang tham gia vào trong hàng ngàn dự án xây dựng cầu đường,
khai thác hầm mỏ và xây dựng các nhà máy điện. Tuy nhiên, mặc cho thực tế về sự
hợp tác giữa hai nước cộng sản đang được khuyến khích bởi các nhà lãnh đạo Việt
Nam, sự xâm lấn thân thiện nầy không làm yên lòng những người đã và đang chiến
đấu chống lại những toan tính xâm lăng của người Trung Quốc trong hơn 1000 năm
qua, và lần gần đây nhất là vào năm 1979.
Nhiều
người ở Việt Nam hiện đang lo lắng rằng Trung Quốc đang được trao cho những chiếc
chìa khóa không những là để khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên của quốc
gia họ mà còn của cả những khu vực có tính chiến lược nhạy cảm, đe dọa an ninh
quốc gia.
“Sự
nguy hiểm nhất đó là Trung Quốc đã và đang thắng hầu hết các cuộc đấu thầu xây
dựng nhà máy điện, nhà máy xi măng, và các công ty hóa chất,” viên Tổng giám đốc
Hiệp Hội Công Nghệ Cơ Khí Nguyễn Văn Thu đã cho biết. “Họ chiếm hết tất cả các
hợp đồng xây dựng và chẳng để lại gì hết.”
Ông
Thu nói rằng ông đang tình nghi các công ty Trung Quốc đã chiến thắng và nắm hết
tất cả các hợp đồng xây dựng bằng cách bỏ thầu các công trình với giá rất thấp
đến mức khó lòng chấp nhận được, điều ấy có nghĩa là họ đang cắt xén công trình
xây dựng, đe dọa phẩm chất và sự an toàn (của các công trình hay sản phẩm).
Nhưng
nỗi quan ngại lớn nhất của ông Thu là làn sóng tràn vào của số lượng lớn người
Trung Quốc, bao gồm những người nấu ăn và làm vệ sinh dọn dẹp, nghĩa là họ đang
chiếm lấy việc làm của người Việt Nam và đe dọa sự ổn định của xã hội.
“Các
nhà thầu khoán người Trung Quốc mang mọi thứ vào Việt Nam, thậm chí cả các bàn
cầu của phòng vệ sinh!” ông Thu cho biết. “Đó là các vật liệu mà Việt nam có thể
sản suất, và các công việc mà người Việt Nam có thể làm.”
Điều
lôi cuốn sự chỉ trích mới đây nhất dành cho tình cảm chống lại người Trung Quốc
là kế hoạch của chính phủ Hà Nội chấp thuận các công ty của Tập đoàn Nhôm Trung
Quốc (Chinalco) khai thác quặng Bô-xít ở các vùng Cao Nguyên của Việt Nam.
Bô-xít
là một thành phần chính của nhôm, thứ kim loại mà Trung Quốc đang cần để cung ứng
cho kỹ nghệ xây dựng của họ. Việt Nam có 8 tỉ tấn bô-xít có phẩm chất cao, nguồn
dự trữ đứng hàng thứ ba của thế giới.
Tuy
vậy, cái giá phải trả cho việc hủy hoại môi trường thiên nhiên là rất cao. Việc
đào xới bằng phương pháp cắt đất xuống sâu cho quặng bô-xít lộ ra thì có hiệu
quả, nhưng các vết sẹo của đất và việc chế biến bô-xít phát ra một thứ bùn trầm
tích đỏ rất độc hại mà loại bùn nầy có thể thâm nhập vào trong các nguồn cung cấp
nước nếu không bảo quản đúng mức.
Nhiều
khoa học gia Việt Nam cũng như các phong trào môi trường đang phát triển của Việt
nam đã và đang chất vấn sự khôn ngoan của việc nhường các quyền khai mỏ cho
Trung Quốc, (trong khi) chính các mỏ bô-xít của Trung Quốc đã phải đóng cửa vì
những tai hại khổng lồ và khủng khiếp mà các khu mỏ bô-xít (alumin) đã gây ra
cho môi trường ở Trung Quốc.
Nhưng
sự phản đối thật sự dường như với môi trường thì ít mà nỗi sợ của Việt Nam về
nước láng giềng ở biên giới phía Bắc thì nhiều hơn.
Các
nhóm dân tộc chủ nghĩa tố cáo chính quyền Hà Nội về việc bị áp lực của Trung Quốc
đang đói khát các nguồn nguyên vật liệu bằng cách chấp thuận cho dự án khai
thác mỏ được tiến hành.
Nhiều
blogger người Việt đang khuấy lên những nỗi lo ngại rằng làn sóng du nhập của
các công nhân Trung Quốc là một phần của kế hoạch lâu dài của Bắc Kinh để chiếm
đóng quốc gia của họ. Những nhóm có khuynh hương dân chủ bị cấm hoạt động nầy,
(đang sung sướng có được cơ hội chỉ
trích chính quyền độc tài), gọi việc hợp tác khai mỏ giữa Việt Nam và Trung Quốc
là “một mưu đồ mờ ám”.
Đầu
tháng nầy, Thượng tọa Thích Quảng Độ đã nói rằng việc đào xới đất xuống sâu để
lấy bô-xít sẽ tàn phá cách sinh sống của các nhóm dân tộc thiểu số. Ông nói
thêm rằng dự án bô-xít là một “minh họa về sự lệ thuộc của Việt Nam vào Trung
Quốc.” Không thấy có sự chống đối tương tự như thế đối với hai công trình khai
thác mỏ của công ty nhôm khổng lồ Alcoa của Mỹ tại tỉnh Đắc Nông ở Tây Nguyên.
Có
lẽ, lời chỉ trích không mong đợi nhất đến từ Đại tướng Võ Nguyên Giáp, một nhà
lãnh đạo quân sự rất được kính trọng ở Việt Nam, ông ta đã giúp đánh thắng người
Pháp và về sau là thắng người Mỹ. Trong một lá thư gởi tới Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng, người anh hùng 97 tuổi nầy đã nêu lên mối quan ngại về sự hiện diện của một
số lượng lớn người Trung Quốc ở những vùng trên Cao nguyên Trung Phần, một cửa
ngõ chiến lược đối với Việt Nam, một nơi từng quyết định thắng bại của các trận
chiến.
Các
quốc gia khác trong vùng nầy không thoải mái vì tình trạng đói khát các nguồn
tài nguyên của Trung Quốc. Tháng 3 -2009, vì các quan ngại về an ninh quốc gia,
chính quyền Úc đã từ chối một cuộc bỏ thầu
trị giá 1,8 tỉ đô la của công ty Khai Mỏ Trung Quốc Minmetals muốn mua lại công
ty Minerals OZ đang vướng đầy nợ nần, công ty Mineral làm chủ mỏ Zinc lớn hàng
thứ hai của thế giới. Công ty Oz Minerals có những mỏ nằm gần khu thử nghiệm vũ
khí Woomera của nước Úc.
Chính
quyền Hà Nội nói rằng họ đang lắng nghe các nguồn quan ngại nhưng họ dường như
không thay đổi ý kiến. Gần đây, ông Dũng đã tuyên bố “việc khai mỏ bô-xít là một
chính sách lớn của đảng và nhà nước.”
Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải đã tái khẳng định sự hỗ trợ của chính phủ, và vài viên chức của tỉnh đã có mặt tại một cuộc hội nghị khai mỏ gần đây để bảo vệ dự án bô-xít nầy, những viên chức địa phương của tỉnh nầy lý luận rằng mặc dầu có sự hiện diện của các công nhân Trung Quốc, việc khai thác mỏ sẽ đem lại phúc lợi cho những người dân thiểu số nghèo nàn của vùng nầy.
Sức
ép lên Việt Nam để tiến hành theo kế hoạch đã định là rất lớn, ông Carl A.
Thayer nói, ông là một nhà chuyên môn nghiên cứu về Việt Nam, dạy tại Đại Học
New South Wales của học viện Quốc Phòng Úc. Việt nam đang cần buôn bán với
Trung Quốc để tồn tại.
Ông
Thayer thừa nhận rằng không có một công ty Trung Quốc nào hoạt động độc lập với
chính quyền của họ. “Nếu quí vị tìm hiểu cho kỹ các công ty Trung Quốc nầy, quí
vị sẽ khám phá ra rằng các công ty đó có quan hệ chặc chẽ với quân đội hay an
ninh Trung Quốc” ông cho biết. “Nhưng một cuộc xâm lăng của Trung Quốc ư? Tôi
không tin điều này.”
Ông
Thayer nhận thấy rằng: Một số các khó khăn là do chính Việt Nam gây ra. Việt
Nam đang trở nên ngày càng lệ thuộc vào các nguồn đầu tư trực tiếp của ngoại quốc
để giữ cho nền kinh tế khỏi bị chìm.
Năm
ngoái, các nhà đầu tư ngoại quốc đã đầu tư một mức kỷ lục là 11,5 tỉ đô la vào
Việt Nam. Trung Quốc có 73 dự án đầu tư vào Việt Nam có trị giá 334 triệu đô
la. Nhưng sau khi có cuộc suy thoái toàn cầu, các đầu tư trực tiếp của ngoại quốc
sụt giảm 70% vào quí 1 năm 2009, so sánh với cùng thời gian nầy năm ngoái.
Hà
Nội đã và đang kêu gọi gia tăng đầu tư, và thậm chí đang rất cần các nguồn tiền
bạc từ bên ngoài bơm vào cho nền kinh tế của họ đang ở một mức rất thấp.
Việt
Nam cũng đang thua thiệt vì mức chênh lệch thương mại khổng lồ với Trung Quốc
(Việt Nam xuất khẩu qua Trung Quốc 1 tỉ đô la, nhưng nhập khẩu của Trung Quốc
20 tỉ đô la năm 2008 – theo website của bộ Ngoại Thương VN).
Khi
có nhiều công ty người Trung Quốc hùn hạp nhau ở phía bên kia biên giới và đầu
tư nhiều triệu đô la vào các dự án đầu tư mới, Hà Nội không thể nào ra lệnh cho
những công ty đó điều gì phải nên làm. Họ cũng không thể chỉ ngăn chận làm giảm
bớt nguồn tiền đầu tư ấy. “Nhà nước Việt Nam phải thận trọng về những gì họ
mong muốn” Giáo sư Thayer cảnh báo.
Người
dịch: Trần Hoàng
http://anhbasam.wordpress.com/2009/04/19/vn-dang-co-noi-lo-moi-ve-su-xam-luoc/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét