4-10-2012
Hình bên: Thiếu tá Thiên Nga Nguyễn Thanh Thủy. Trước 30.4.1975 và sau 13 năm tù. (Hình Văn Khố: Olivier Glassey Trầnguyen)
Chuyện Thiếu Tá Thiên Nga Nguyễn Thanh Thuỷ
Những ngày sau 30 tháng Tư, 1975 chắc chắn là những ngày kinh hoàng nhất cho rất nhiều gia đình tại miền Nam Việt Nam. Nhưng đối với một số người, những ngày ấy kéo dài tưởng như vô tận, đến mười mấy năm, mà mỗi ngày là một thế kỷ của nhọc nhằn và mỗi đêm là một trường canh của kinh sợ. Cái giai đoạn lịch sử ấy – tuy man rợ và đầy tang thương – nhưng vẫn là một di sản được những người trong cuộc ôm ấp và gìn giữ.
Bởi vì, cái lịch sử ấy chính là một dấu chứng cho niềm tin vào điều thiện và sự vượt qua của những ai còn sống sót sau kinh nghiệm hỏa lò. Đó có lẽ là lý do mà khi đến Mỹ, Cựu thiếu tá Thiên Nga Nguyễn Thanh Thủy đã mang theo 3 vật rất quan trọng đối với mình. Một đôi găng tay may từ vải vụn, bà đã dùng trong thời gian 13 năm tù cải tạo. Hai chiếc áo tù – một bằng vải thô, và một bằng len, do chính bà đan lại từ hai chiếc áo lạnh cũ đã chật của hai con gái, do mẹ bà gửi vào. Và một cơ thể đã bị phá hủy, thương tật.
Những ngày sau 30 tháng Tư, 1975 chắc chắn là những ngày kinh hoàng nhất cho rất nhiều gia đình tại miền Nam Việt Nam. Nhưng đối với một số người, những ngày ấy kéo dài tưởng như vô tận, đến mười mấy năm, mà mỗi ngày là một thế kỷ của nhọc nhằn và mỗi đêm là một trường canh của kinh sợ. Cái giai đoạn lịch sử ấy – tuy man rợ và đầy tang thương – nhưng vẫn là một di sản được những người trong cuộc ôm ấp và gìn giữ.
Bởi vì, cái lịch sử ấy chính là một dấu chứng cho niềm tin vào điều thiện và sự vượt qua của những ai còn sống sót sau kinh nghiệm hỏa lò. Đó có lẽ là lý do mà khi đến Mỹ, Cựu thiếu tá Thiên Nga Nguyễn Thanh Thủy đã mang theo 3 vật rất quan trọng đối với mình. Một đôi găng tay may từ vải vụn, bà đã dùng trong thời gian 13 năm tù cải tạo. Hai chiếc áo tù – một bằng vải thô, và một bằng len, do chính bà đan lại từ hai chiếc áo lạnh cũ đã chật của hai con gái, do mẹ bà gửi vào. Và một cơ thể đã bị phá hủy, thương tật.
Nhưng bà cũng mang theo một gia
tài quan trọng hơn cả những vật chứng này – một gia tài không ai có thể tịch
thu, đấu tố, hay phá hủy: một ý chí để sống, một nghị lực phục vụ gia đình và
xã hội, và một niềm tin mãnh liệt vào Chúa. Chính gia tài này đã là cứu cánh
cho bà trong suốt 13 năm tù, và quãng đời sau đó.
Trên
hai chiếc áo tù đó, số tù – cũng là 'nhân diện' của bà trong mười ba năm khổ
sai – đã bắt đầu phai nhạt theo năm tháng. Nhưng những đau đớn về tinh thần lẫn
thể xác vẫn còn hằn sâu. Có lẽ những thế hệ một và một rưỡi còn nhớ và biết cái
bi kịch hỏa lò tại Việt Nam, nhưng thế giới và những thế hệ Việt ngoại biên vẫn
cần một văn khố chính thức về bi kịch này.
Tôi thắc
mắc, sau những đằng đẵng đói lạnh và lao động quá sức, không biết trong những
lúc quá cùng cực và bị bệnh thập tử nhất sinh, Nguyễn Thanh Thủy có bao giờ cảm
thấy tuyệt vọng không? Mười ba năm khổ sai đã cho bà nhiều kinh nghiệm đắt đỏ
và một cái nhìn thấu đáo về chế độ chính trị đang nắm quyền trên quê hương bà.
Và khi bà rời nhà tù nhỏ của trại Hàm Tân Z30, bà tiếp tục bị dồn bức cho đến
giây phút gia đình bà đứt ruột rời bỏ người thân và quê hương để đi Mỹ qua diện
H.O.
Điều quan
trọng là chúng ta không để cho những sự thật về bi kịch này phai nhạt – như
những số tù trên áo những người tù khổ sai năm nào. Chúng ta cần ghi lại những
đau thương – không vì hận thù – nhưng vì để đấu tranh cho Công lý, Hòa bình, Tự
do, Bác ái. Đến bao giờ, người Việt hải ngoại mới có một tác phẩm như Quần Đảo
Ngục Tù của Aleksandr Solzhenitsyn, người đoạt giải Nobel Văn Chương 1970 với
những tác phẩm vạch trần cái hỏa lò của Cộng Sản Xô Viết? Những quần đảo ngục
tù vẫn còn hoành hành trên cơ thể của nhiều con dân Việt và ngay trên đất Việt
qua những hậu quả khốc liệt của nó. Đến bao giờ chúng ta mới có một
Solzhenitzyn của Việt Nam? Vì nếu những đau thương này đã đến từ bất công, thì
chúng cũng là một mối đe dọa cho con người ở tất cả mọi nơi – như nhà tranh đấu
dân quyền Martin Luther King đã nói, "Bất công ở bất cứ nơi nào là bất
công ở khắp mọi nơi." Xã hội con người không tách rời nhau bởi biên giới
hay ngôn ngữ, mà cộng thông trong lý tưởng công bằng, bác ái, và dân chủ.
Chiếc áo tù ngày nào, tuy nay
không còn ấm lạnh trên người Nguyễn Thanh Thủy nữa, nhưng kinh nghiệm mười ba
năm tù khổ sai là một chiếc áo đầy gai, vẫn châm chích và làm đau đớn tâm hồn
và thể xác bà. Hai mươi bốn năm sau khi ra khỏi trại tù, bà vẫn còn oằn oại
trong những bệnh tật do giai đoạn oan nghiệt này tạo ra, và những kinh hoàng
của bốn tháng biệt giam vẫn bám riết tâm trí bà. Chúng ta thử cùng bà ngồi
trước màn ảnh của quá khứ, chứng kiến lại những điều mà trước nay bà chưa nói
được với ai, vì nó quá kinh hoàng và khó khăn để thuật lại.
Nguyễn Thanh Thủy nhớ lại, “Vài
hôm sau ngày 30 tháng Tư, 1975, tôi bị gọi đến nơi làm việc của Ủy Ban Quân Quản
của chế độ Cách Mạng (tức Văn Phòng Khối Đặc Biệt, đường Cộng Hòa cũ) để hỏi
cung từ 8 giờ sáng đến 4 giờ chiều. Cán Bộ Cộng Sản cho biết, lẽ ra giam cầm
tôi luôn, nhưng vì các con tôi còn quá nhỏ, nên mỗi ngày tôi đến đây làm việc
rồi về. Họ cho tôi xấp giấy, cây viết, và muốn tôi viết lại quá trình hoạt
động. Mỗi ngày tôi chỉ viết lý lịch của mình, rồi tôi nộp, nhưng họ không bằng
lòng. Tôi có cho họ biết là tôi không nhớ gì cả, và yêu cầu họ cho tôi thời
gian để tập trung trí nhớ. Sau đó, họ giúp tôi bằng cách dẫn tôi đi vòng quanh
khối Đặc Biệt, vào những phòng làm việc của Khối để nhìn từng nơi xem thấy cái
gì còn, cái gì mất. Tôi chú ý đến Văn phòng của Trưởng Cơ Quan E4, nơi còn
những bản sơ đồ vẽ hệ thống hoạt động, những bản thuyết trình có ám danh công
tác, bí số nhân viên, nhưng không có tên tuổi thật. Tôi nghĩ trong đầu một kế
hoạch để đối phó với Cộng Sản khi bị hỏi cung.”
Cô dâu Nguyễn Thanh Thủy và chú rể Lê Thành Long |
Nguyễn Thanh Thủy không chỉ là một
người tù cải tạo. Bà còn là vợ một người tù cải tạo. Chồng bà, Cựu Đại Tá Võ Bị
Lê Thành Long, cũng vào tù sau ngày 30 tháng Tư 1975. Ba người con nhỏ của ông
bà được gửi gắm lại cho ông bà Ngoại tại Mỹ Tho. Tuy nhiên, những cố gắng để
kéo dài thời gian hỏi cung của bà cũng không giúp bà được ở gần gia đình mãi.
Đến 15 tháng Sáu, 1975 thì bà bị tập trung vào tù cải tạo. Theo lời bà, thì
“Tôi ở chung trại với tù cải tạo nam, học tập chính trị ở hội trường, học quốc
ca của Cộng Sản và những bài hát đấu tranh chống Mỹ Ngụy, làm những bài thu
hoạch, phê và tự phê, kiểm điểm, nộp cho họ. Tất cả mọi người phục vụ cho chế
độ Việt Nam Cộng Hòa đều có tội nhiều hoặc ít. Đó là cách luận tội của Cộng
Sản. Tôi vào trại tù cải tạo Long Thành, với một túi xách đeo vai, một chiếc
chiếu nhỏ cho một người nằm. Thiếu đủ mọi thứ. Tôi phải xuống hố rác cạnh dãy nhà
chúng tôi ở, để tìm chai, lọ, mấy tấm tôn để đựng nước, đựng cơm, thức ăn… Nước
chỉ đủ uống, không đủ tắm. Trời tháng sáu mưa dầm dề. Chờ trời mưa, tôi gội đầu
tắm giặt nhờ những dòng nước mưa chảy theo mái nhà.”
Trong suốt thời gian bị giam một
mình, bà đã canh cánh sợ bị bọn võ trang muốn làm hỗn nên không bao giờ dám
chợp mắt, đã nơm nớp khiếp sợ mỗi đêm khi cai ngục lẻng kẻng xâu chìa khóa đâu
đó giữa rợn rùng thăm thẳm tối. “Vì đêm trước có ai bị đưa đi, thì sáng hôm sau
coi như mất tích,” bà nói. Hơn nữa, phương tiện vệ sinh căn bản nhất cũng không
có. Bà hồi tưởng, “Nói đến nơi tiểu tiện bằng những cầu dã chiến ngoài trời,
mưa dầm là nó lầy lội, và những con vòi trắng lềnh bềnh mà nữ thì làm sao dám
ngồi để tiểu tiện, nên tôi đành nín, nhịn khát, đợi tối mới ra cái nhà tắm che
bằng bốn vách lá, đi xong cho vào hố rác. Nhớ tới cảnh này, tôi luôn rùng mình,
sao tôi chịu nổi dơ bẩn như thế.”
Bà
nói tiếp, “Đầu tháng 10 năm 1975, tôi bị chuyển về trại giam Thủ Đức (tức
16NV). Chỉ có một người nữ bị chuyển là tôi. Tôi ở một mình trong phòng giam và
bắt đầu các cán bộ thẩm vấn, điều tra từ trung ương đến. Tôi bị kêu lên đêm có,
ngày có, bị hỏi liên tục, hỏi xong rồi bắt viết, thu bài. Những tháng ngày này,
đầu óc tôi quá căng thẳng. Cả đêm không buồn ngủ, tựa lưng vào vách tường, kê
túi quần áo và gối nằm để làm điểm tựa viết bài họ điều tra.”
Bà nhớ
lại, “Tôi phải cải tạo khổ sai ở đây nhiều năm, không đủ vệ sinh và thiếu thốn.
Ăn thì độn khoai mì có vỏ đỏ quấy, gọi bột ngàng phệt, hột bo bo, mì sợi luộc có
cả con chuột chết vớt ra bỏ đi, lại tiếp tục chia mì sợi cho người một phần để
ăn, không thì đói. Cả ngày cuốc xới mỏi mệt, tối đến vào phòng ngủ gần người
lao phổi (xuất huyết phổi tới thời kỳ chót), bệnh giang mai thời kỳ thứ ba, phổ
có nước thời kỳ chót. Tôi phải sống chung với họ cho tới khi họ được tha, và
không bao lâu thì họ chết. Tôi phải may những nệm ngồi bằng vải vụn riêng để
tránh lây nhiễm. Lúc ngủ, các bạn khỏe xếp gần nhau, chừa một chiếu cách người
bệnh, xây đầu khác hướng với người bệnh và xây lưng về phía người bệnh để tránh
lây nhiễm.”
Vì Nguyễn Thanh Thủy đã giữ một
vai trò khá quan trọng khi phục vụ dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa, bà đặc biệt
bị quản lý nghiêm ngặt và tra khảo liên tục, làm bà chóng mặt, căng thẳng đến
ngã bệnh. Cán bộ không bao giờ rời mắt khỏi bà, ngay cả về đêm. Bà kể, “Tôi là
người tù bị chỉ định nằm ngay cửa ra vào hoặc ngay cửa sổ phòng tù để họ dễ
kiểm soát hành vi về đêm của tôi. Cửa sổ tù không bao giờ có cửa để đóng lại,
nên rất lạnh. Đêm đêm đói bụng quá, các bạn tù kể món ăn này, món ăn kia cho đỡ
thèm đỡ đói. Nhớ chồng con kể chuyện hạnh phúc ngày nào thì có bà lên tiếng,
kêu đừng kể nữa, vì rờ hai bên toàn chiếu không. Tới ngày thăm nuôi được gặp
thân nhân gia đình, là lúc lấy dạ dày an ủi trái tim.”
Trong hoàn cảnh lao tù khổ sai,
người nữ tù chịu nhiều khó khăn và khổ sở hơn người tù nam, nhất là về phần vệ
sinh hằng tháng, và sự an toàn bản thân. Không chỉ những nữ tù cải tạo mới bị
dòm ngó và hãm hiếp, mà những phụ nữ bị bắt vì vượt biên cũng bị lính gác bạo
hành về tình dục. Sự căng thẳng của người tù nữ, vì vậy, cao gấp nhiều lần so
với bạn tù nam. Bà lại kể, “Trại giam có nước máy, nên vệ sinh cá nhân cũng đỡ,
nhưng vấn đề phụ nữ hằng tháng, không có băng giấy, tôi phải dùng quần áo cũ xé
ra để lót, rồi giặt không xà phòng (vì không được thăm nuôi). Ăn uống, mỗi buổi
sáng được một ly nước nóng, trưa một phần khoai độn, buổi chiều nửa chén cơm,
một chút rau muống luộc với nước muối. Lễ lớn có một miếng thịt bằng ngón tay.
Hơn một năm, một số tù cải tạo chuyển đi Bắc, một số tù cải tạo ở nơi khác
chuyển tới, lúc đó mới có một số chị em phụ nữ ở trại Long Giao, trại giam Chí
Hòa, Phan Đăng Lưu tới. Đa số là tù phản động. Tôi mới thoát cảnh ở một mình mà
sống tập thể với bạn tù cũ, bạn tù mới. Tôi bắt đầu đi lao động, làm cỏ chung
quanh trại giam, và trồng rau muống.”
Cảnh lao động vất vả của trại tù,
dù sao, cũng cho người tù cơ hội được thấy ánh sáng mặt trời, mà không bị vây
hãm gò bó giữa bốn bức tường bức bối. Nhưng trồng rau bằng phân người và nước
tiểu người là những cực hình mà người tù phải gánh chịu, và ăn rau do chính
mình trồng nhưng không được rửa sạch làm cho người tù bị tiêu chải kinh niên.
Nhu cầu nha chu hay y tế căn bản cũng không được đáp ứng, nên bạn tù phải mượn
kềm của tù nam hình sự, khi họ về ăn cơm trưa trong một tiếng, để nhổ răng cho
nhau, khi răng đã hư quá nặng và không thể giữ được. Họ phải cầm máu bằng nước
muối, vừa rát, vừa đau.
Bà kể tiếp, “Hai năm sau, tức tới
tháng Bảy, 1977, chúng tôi chuyển lên trại tù cải tạo Căn Cứ 5 Rừng Lá, tức
trại Z30D Hàm Tân, Thuận Hải. Đã di chuyển xa, nên việc phải gặp chấp pháp ít
hơn, vài ba tháng một lần. Mà chủ yếu là lao động, cả đội mấy chục cô cầm cuốc,
cầm xẻng, thùng tưới nước, chia nhau công tác để làm. Mới đầu chẳng biết cuốc,
cả ngày trời cuốc một khoảng cỏ trước sân cơ quan mà thấy vẫn y nguyên. Lần lần
gánh tranh, trồng rau muống, khoai lang, củ cải. Rau tưới bằng một lon nước
tiểu pha một thùng nước suối, phân người bỏ dưới rãnh, lấp đất, trồng rau lên.
Tôi yếu sức nên đứng múc nước
tiểu, pha cho người khỏe trẻ tưới. Cả ngày làm lao động mệt, chiều hết giờ chạy
về bờ suối tắm 20 phút, vừa giặt giũ vừa tắm, không có quản giáo nữ canh gác.
Cán bộ nam và võ trang canh gác khi đội nữ tắm. Bọn cai tù nói, “Các chị cứ coi
chúng tôi như các chị, cứ thế mà tắm.” Thật là trơ trẽn. Chúng tôi cứ nhúng cả
người xuống nước rồi lên giống như vịt rỉa lông. Những ngày mưa, nước suối đục
ngầu, vẫn phải tắm, vì nước tiểu và phân dính cả người. Tới mùa nước suối cạn,
bọn Cộng Sản chuyển đội nữ về lại trại cải tạo Long Thành. Nơi đây là trại hình
sự, máy nước bị hư, không tiền sửa chữa. Mỗi ngày phát một gô nước uống, một
tuần lễ mới ra suối cạn tắm một lần, giặt giũ rồi xách nước về. Về tới trại rửa
cát bụi đi đường là thấy hết sô nước. Trại này trồng táo Thái Lan, dền, rau
muống, cũng dùng nước tiểu, phân người làm phân bón. Chỉ trồng táo mới tưới
bằng phân urê.”
Nhưng
sau đó, bà bị chuyển trại, và bị đưa vào biệt giam hơn một năm để hỏi cung. Đây
là gian đoạn gian nan nhất trong thời gian mười ba năm khổ sai của bà. Tuy
nhiên, bà vẫn luôn giữ trong đầu một điểm đến: cố sống sót, đối diện với nghịch
cảnh, để có ngày đoàn tụ với con. Bà ôn lại, “Ăn thiếu thốn, đói khát, bị vây
quanh mấy tên cán bộ chấp pháp, tôi muôn điên lên vì thần kinh quá căng thẳng.
Tôi sẽ gặp đau thương khi đối đầu với địch nên trước ngày cuối, để bảo mật, tôi
đã hủy hồ sơ của Biệt đội Thiên Nga. Tôi cũng được bọn Cộng Sản đưa đi xem các
văn phòng có liên hệ. Nhưng tôi vẫn lo lắng cho các nhân viên.
Bà mẹ Thanh Thủy và ba con thơ tại Mỹ Tho |
Tôi muốn bảo
toàn cho các bạn nữ đồng khóa, các nhân viên, và cộng tác viên. Tôi tâm niệm
trong lòng mỗi lần phải gặp mặt cán bộ, tôi đều thầm nhủ đây là địch, đây là
Việt Cộng, làm cho tôi thêm nghị lực, bình tĩnh hơn, mạnh dạn hơn để trả lời.
Tôi ở biệt giam một mình hơn một năm, vì phải làm việc bằng đầu óc, trại giam
gọi là động não quá nhiều, ăn uống thiếu thốn, ngủ nền xi-măng, tôi bị liệt một
chân, phải lần vách. Tôi mới xin lau chùi quét dọn hành lang và xin phơi nắng
nửa giờ mỗi ngày trừ thứ Bảy và Chủ Nhật. Tôi tập giật chân kinh và tự xoa nắn
lấy chân bị liệt teo cơ do suy dinh dưỡng gây ra. Tôi tự nhắn nhủ, không nhớ
con nhiều nữa, phải rán chịu đựng mọi khó khăn để có sức khỏe trở về với con.”
Thời gian
biệt giam này đã dài như thế nào? Những chi tiết về gian đoạn này sẽ khiến
nhiều người không thể tưởng tượng ra được, bà Nguyễn Thanh Thủy đã làm thế nào
để sống sót. Bà nói, “Tháng 4 năm 1981, tôi bị đưa từ trại tù cải tạo Long Thành
về trại tù biệt giam X4 (Bộ Công An Cộng Sản đường Võ Tánh, Sàigòn). Tôi ở xà
lim, chung quanh tối om, ngoài một bóng đèn điện cho cả dãy xà lim, mỗi xà lim
có một khoảng trống bằng một cục gạch trên sát trần nhà để thở. Trời tháng Tư ở
Việt Nam, nóng bức, mồ hôi chảy như tắm, quần áo vo cao cho bớt nóng. Tuần lễ
đầu tiên tôi bị xỉu, thiếu dinh dưỡng, thời tiết quá nóng. Cán bộ trại giam
phát hiện do người ở cạnh xà lim đập tường hỏi thăm sức khỏe, không thấy tôi
trả lời, họ đập tường gọi cán bộ cấp cứu. Sau lần cứu tôi tỉnh dậy, trại giam
đưa một lọ thuốc tim nhỏ giọt để khi mệt nhỏ vào miệng và gọi cấp cứu.
Về ăn uống, sáng để gô ra, họ cho
một gô nước nóng. Trưa và chiều để ít cơm trong cái thau và một chén canh ngoài
song sắt xà lim, rồi tự mình mang cơm canh qua song sắt để ăn. Phải kiếm thế
nghiêng thật nhanh, mang tất cả cơm canh vào. Vì không có muỗng, nên phải ăn
bốc bằng tay.
Lúc mới tới, Cán Bộ chấp pháp cho
biết tôi sẽ được ăn tiêu chuẩn quốc tế, dành cho người về làm việc, ngày 3 lần:
sáng, trưa, chiều. Nhưng tôi chưa bao giờ nhận được buổi ăn nào như thế. Các tù
nhân đi với Cán Bộ trại giam giao phần ăn không được mặc áo, phải ở trần và bận
quần xà lỏn (quần đùi), họ không được nói bất cứ lời nào. Muốn hỏi gì, họ chỉ
tay về phía Cán Bộ, người Cán Bộ mới có quyền nói chuyện với tù nhân.
Về phần vệ sinh cá nhân, mỗi ngày
được tắm một lần, 20 phút. Tù không bao giờ gặp mặt nhau, cứ người này tắm
xong, mới mở cửa phòng khác cho tù ra tắm. Tiểu tiện đi vào thùng sắt đựng đạn
của Mỹ, cứ đi tắm mang ra đổ, rửa sạch dùng lại.
Đưa tôi về nơi này, bọn Cán Bộ
chấp pháp làm áp lực để tôi viết cam kết, với chồng hồ sơ thu thập được của
nhân viên Thiên nga, cấp chỉ huy, bạn bè để trước mặt, cho thời hạn suy nghĩ là
3 ngày. Trên đường trở về xà lim, tôi nhờ chấp pháp trình lại với lãnh đạo của
họ, 6 năm tù cải tạo đủ để suy nghĩ, không cần thêm 3 ngày. Tôi trả lời: Không,
không bao giờ.
Thế là tiêu chuẩn ăn hàng ngày bị
giảm đến mức tối thiểu, chỉ còn một chút cơm với vài hột muối hột. Thời gian
này, bệnh nặng không được chữa, có lần ói từ nửa đêm đến sáng. Khi họ kiểm tra
thấy nằm ói toàn mật xanh, Bs y tá tới, cho thuốc uống liền tại chỗ. Người y tá
đưa thuốcd nói thật nhanh, thật khẽ, “Đừng uống.” Tôi vội nắm chặt thuốc trong
lòng bàn tay, đưa tay giống như bỏ thuốc vào miệng và vội vàng uống nước. Sau
này, tôi gặp người y tá đó khi khám sức khỏe đi Mỹ tại Bv Cảnh Sát. Người ấy
mới kể, trước là y tá Bv Cảnh Sát Quốc Gia VNCH, có thân nhân liệt sĩ, nên được
giữ làm lại, biết tôi và tránh cho tôi bị thuốc.
Họ giữ tôi tại cơ quan X4 bốn
tháng nhưng không khai thác được gì. Bọn chấp pháp đem cán bộ nữ ra dụ dỗ vì
thương con tôi, mới khuyên tôi cam kết để tha về. Tôi khẳng định tôi về khi nào
có chính sách của lãnh đạo nước, chứ về riêng lẻ không bao giờ có. Thấy tôi
kiên quyết không khai, bọn chấp pháp biểu tôi đứng xa họ ba thước, nghe đọc
lệnh án. Lệnh án có nội dung như sau: Do quyết định ngày… tháng… năm, Tên
Nguyễn Thanh Thủy có thái độ ngoan cố không chấp hành cải tạo lao động nên
tuyên án tập trung cải tạo tiếp 3 năm và quyết định có hiệu lực vô thời hạn.
Hai chân tôi bị nhốt ở xà lim, nên
bị liệt không đi nổi. Trở lại xà lim, lấy quần áo chiếu mền theo họ chở về trại
tù cải tạo Long Thành. Trước khi lên xe, họ đưa cái giỏ nhỏ nói là quà gia đình
gửi. Sau này gặp chồng tôi, anh kể mấy ngày trước khi tôi trở lại trại cải tạo
Long Thành, họ đưa một miếng giấy có chữ viết của tôi, vỏn vẹn, “Thăm anh và
các con. Em vẫn khỏe mạnh.” Xong họ dặn chồng tôi mua cho tôi ít quà khô. Họ
biểu đem đến cổng. Anh không biết chỗ, hỏi thăm gác cổng, họ bắt anh nhốt cho
tới tối mới thả anh ra.
Sáng hôm sau là tôi chuyển trại.
Họ phải xách tất cả một xách quần áo, sô đựng vài thứ linh tinh, một giỏ thức
ăn. Vì tôi đi không nổi, mặt mày xanh xao, không ánh nắng mặt trời bốn tháng,
màu da vàng của người VN rất đúng không sai tí nào. Nói đến hình phạt kỹ luật
cho nữ, cái nhà kỹ luật là nhà có 2 lớp, giống như cái hộp có hai lớp, một lớp
là phòng giam nóc bằng, cách khoảng chừng 1 thước, lớp ngoài cũng xi măng cốt
sắt.
Mỗi phòng giam kỷ luật có một cái
bệ. Cuối bệ có cây sắt thông ra ngoài để khóa bằng ống khóa sắt. Trên cây sắt
có những cái cùm. Cái bệ xi măng có một cái lỗ để thùng đạn của Mỹ. Thùng trống
không, làm chỗ tiểu tiện. Đặc biệt là kể từ ngày vào phòng giam kỹ luật cho đến
ngày ra không được tắm. Khôn được tắm từ 1 tuần cho tới 3 tháng, 6 tháng, hay
cả năm, chỉ những ngày kinh nguyệt phụ nữ mới được 40 phút thay quần áo.
Tùy theo hình thức phạt, đa số hai
chân đều phải cùm lại, hỏng trên cái bệ, nên rất đau đớn vì tê chân và sét ăn
vào cườm chân. Muỗi đốt suốt ngày đêm, bóng tối cả ngày đêm… Những hình thức
này tôi đều trải qua, hằn sâu trong da thịt tôi.”
Chính
thời gian biệt giam này đã gây ra nhiều tổn thương trên thân thể bà nhất, từ
việc bị bại liệt một bên người, phong thấp, các chứng bệnh đường ruột và tiêu
hóa, cho đến sự căng thẳng đầu óc đến cao độ. Từ việc bị giam trong phòng tối
cả ngày lẫn đêm, cho đến việc bị điều tra hỏi cung 24/24, cho đến việc bà bị
trừng phạt không cho ăn uống, chỉ có chút nước và ít muối hột, hay bị phạt
không được tắm, những ngày có kinh nguyệt bà cũng chỉ được 40 phút thay quần áo
rồi bị cùm lại – tất cả đã khiến bà rụng gần hết răng và cơ thể bà hoàn toàn
kiệt sức, không đứng được.Tại Mỹ với vật chứng nhà tù mang theo. (hình phóng sự: Benjamin Vũ) |
Bà kiên trì, giữ vững tôn nghiêm
của người lính, giữ tinh thần lạc quan. Cho nên “Cả 13 năm tù, tôi không muốn
kẻ địch thấy giọt nước mắt của tôi. Nên khó tìm thấy nét buồn, cho tới ngày em
tôi lên trại, báo tin Ba tôi mất, tôi xỉu ngay tại phòng thăm nuôi và tôi rơi
nước mắt.”
Nhưng dù không biết tương lai mình
ra sao, Nguyễn Thanh Thủy vẫn luôn nghĩ đến người khác, những người bạn tù của
bà. Chính vì nghĩ đến người khác, nên ngay từ đầu, bà đã không khai những bí
mật Thiên Nga khi bị hỏi cung, mà mới bị trừng phạt nặng nề và chịu nhiều tổn
hại về sức khỏe. Đến những ngày cuối cùng, bà vẫn giúp các bạn tù, “Mấy năm
trước ngày ra trại, tôi làm đội trưởng kỹ thuật may, chỉ cho các em hình sự án
cao biết may gia công để đỡ cuốc đất trồng rau cực khổ trong thời gian thụ án,
sau có tay nghề may.”
Là người nữ tù cuối cùng rời trại
cải tạo vì bị cho là ngoan cố, Nguyễn Thanh Thủy rời tù nhỏ, về tù lớn của xã
hội Việt Nam hậu 1975, với hai hàm răng đã rụng, nên các con không dám tới gần
bà. Con gái bà bảo, “Kỳ quá, Mẹ không có răng!”
Tôi tự hỏi, đối với bà, đâu là nỗi
đau lớn nhất trong 13 năm này: những đau khổ về thân xác trong trại cải tạo,
hay nỗi đau tình cảm phải chia lìa với gia đình và con dại? Thời gian có xoa
dịu được những nỗi đau này không? Hay mất mát sẽ vĩnh viễn là mất mát?
Trang Đài Glassey – Trần Nguyễn
http://www.hennhausaigon2015.com/?p=18681
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét