Nhân sinh
nhật nhà thơ (2.4.1916-2.4.2012)
Đặng
Tiến (Blog Diễn Đàn)
(video thơ: Màu Tím Hoa Sim - Hồng Vân diễn ngâm)
Hữu Loan là khuôn mặt văn học đặc biệt trong nền thi ca Việt Nam đương đại từ non 70 năm nay. Ông làm thơ hay, hiện đại, tân kỳ, nhưng tên tuổi thường xuất hiện theo thời sự. Màu tím hoa sim, làm trong thời chống Pháp, 1949, là bài thơ nổi tiếng nhất, nhưng nhiều người nhắc nhở, đôi khi không phải vì lý do văn học, thậm chí còn làm nhiễu lý luận văn chương.
Khắc hoạ
chân dung văn học chân chính và phức tạp của Hữu Loan là việc khó nhưng trước
sau cũng phải làm.
Ông tên thật
là Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2.4.1916, dường như đúng là 1914, tại làng quê,
huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, và qua đời cũng tại đây, ngày 18.3.2010. Qua non
một trăm năm dâu biển, sinh và mất cùng một xóm quê, chỉ một việc ấy thôi, đã
là nét đặc biệt, trong nhiều đặc biệt khác của Hữu Loan.
Ông thường
kể lại là mình xuất thân từ một gia đình nông dân tá điền nghèo. Nhưng chắc là
không nghèo lắm đâu, nên mới được học và đỗ tú tài năm 1938. Thời đó bằng tú
tài là học hàm cao: với văn bằng này Xuân Diệu đã đi làm Tây Đoan, Vũ Hoàng
Chương đi làm thanh tra hoả xa, còn Hữu Loan thì không dính dáng gì đến quan trường.
Thỉnh thoảng giận đời - dăm ba lần trong đời - ông đã bỏ bút mực về quê cầy ruộng,
đánh cá, từ 1958 thì đi xe thồ chở đá nặng nhọc. Cũng lại là điều không giống
ai.
Ông cưới vợ
giàu và gia thế, dù cho bà ấy có mất sớm, thì nếu muốn nhờ cậy, ông vẫn có nơi
nương tựa, nhất là nhờ vào « ba người anh đi bộ đội », trước kia là học trò ông
dạy kèm trong nhiều năm, về sau hai người là chức trọng quyền cao. Cũng là nét
đặc thù. Lại nhiều chi tiết khác, tổng hợp lại, có thể vẽ lên chân dung Hữu
Loan. Ông có chìm nổi, có gian lao thật, nhưng là cuộc đời ông chọn lựa làm một
« khúc gỗ vuông chành chạnh »; lịch sử có eo ép thật, nhưng là lịch sử chung ;
hoàn cảnh riêng ông, có phần do ông tạo ra, không phải là quy luật hay định mệnh.
Điều thiệt
thòi cho ông là : khi nhắc đến Hữu Loan, ít người quan tâm, bàn luận đến những
đóng góp của ông vào nghệ thuật thi ca từ thời 1945 đến nay. Ít nhiều cũng do
chính bản thân ông không mấy quan tâm, dù ông là một trong những người đi tiên
phong trong việc cách tân thơ Việt Nam.
*
Bắt đầu là
bài Đèo Cả , làm năm 1946 :
Núi cao
ngút
Mây trời Ai Lao
Sầu đại dương
Dặm về heo
hút
Đá Bia mù sương
Bên quán «
Hồng Quân » người ngựa mỏi
Nhìn dốc ngồi
than,
Thương ai lên đường !
Sau chân lối
vàng xanh tuôn
Dưới cây
bên suối độc
Cheo leo
chòi biên cương
(…) Rau
khe, cơm vắt
Áo phai màu
sa trường
Ngày thâu
vượn hú
Đêm canh gặp
hùm lang thang
Trên báo
Văn nghệ, Việt Bắc, số 7, tháng 12-1948, trong mục Tiếng Thơ, Xuân Diệu đã giới
thiệu trích đoạn này trong bài viết tại Vĩnh Yên, ngày 23.11.1948 :
« Tôi yêu,
tôi phục bài thơ hoang vu Đèo Cả. Một Đỗ Phủ của thời mới đã gọi cái đèo chênh
vênh ấy, đứng trong đất nước ta, đứng giữa Phú Yên với Khánh Hòa, mà lại hóa
thành heo hút quá. Vì bên này là ta, bên kia là giặc. Nhất là khi chiến tranh
chưa lan toàn quốc, từ Bắc Bộ, đi suốt vào Đèo Cả, lên Đèo Cả thấy bên kia giặc
rắc tai ương. Đèo Cả biên thuỳ, đứng trên đầu bể thẳm đụng tới mây cao, Đèo Cả
treo giữa biên thuỳ, mà cái đẹp trầm hùng ngang với lòng chiến sĩ » (tr.35).
Xuân Diệu
viết hào hứng, vì rung cảm trước bài thơ, chứng tỏ giá trị nghệ thuật của tác
phẩm. Ông không đề xuất tên tác giả, có lẽ vì bài thơ không ký tên, được đăng
trên báo Chiến Sĩ, của Quân khu IV, in tại Vinh, số 8, năm1947 ; lý do không ký
tên có lẽ vì chính tác giả Hữu Loan làm chủ biên. Lại là một nét đặc biệt.
(Khi in lại
bài này trong cuốn Tiếng thơ, tr 23, nxb Văn Nghệ, 1954, Xuân Diệu nêu tên tác
giả : Hữu, và thay « một Đỗ Phủ của thời mới », bằng « một nhà thơ ». Vẫn không
nêu rõ danh tánh Hữu Loan.)
Bài Đèo Cả,
làm trong chiến dịch Nam Tiến ; không khí nhắc đến những bài thơ đồng thời, như
Nhớ máu của Trần Mai Ninh, làm xong ngày 9.11.1946 tại Tuy Hòa, hay bài Ngoại ô
mùa đông 46 của Văn Cao, cùng đăng trên báo Văn Nghệ, năm 1948.
Cùng một mạch
thơ, khoảng cuối 1950, đầu 1951, Hữu Loan có bài Tình Thủ đô được bè bạn ghi
theo trí nhớ, và tác giả đã duyệt lại :
Trên những
chuyến xe bò
đi về đường Trèm Vẽ
Việt Bắc âm
u
Đường dài
Thanh Nghệ
Người Thủ đô tản cư
Đoàn xe bò
Chở nặng tâm tư
Một góc nhà
Một hè phố
Mắt em biếc
Một chiều xưa
(…) Những
người bắt sống Le Page
và
Charton
Những chiến
sĩ Cao Bằng - Đông Khê
Những binh
đoàn biên giới
Đang chuyển về Trung Du
Như đi từng
dãy núi
Kẹp vòng quanh ngoại vi
Thủ đô.
(trích theo
Dương Tường, phụ lục « Chỉ tại con chích chòe », nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 2009)
Bài này đã
phảng phất ít nhiều hơi hướm, tình cảm lãng mạn, như trong Màu tím hoa sim, viết
về người thật và việc thật xảy ra trong đời Hữu Loan : người vợ trẻ mới cưới, tên
là Lê Đỗ Thị Ninh, chết vì tai nạn – té xuống sông Chuồn khi giặt giũ – ngày 25
tháng 5 âm lịch 1948 (theo lời kể của Hữu Loan)
(…) Tôi người
Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng
như tình yêu em gái
Ngày hợp
hôn
nàng không đòi may áo mới
(…) Tôi ở
đơn vị về
cưới nhau xong là đi
Từ chiến
khu xa
nhớ về ái ngại
Lấy chồng
thời chiến chinh
mấy người đi trở lại
(…) Nhưng
không chết người trai khói lửa
mà chết người gái nhỏ hậu
phương
Tôi về
không gặp nàng
(…)
Sự việc, tự
nó đã buồn. Nó còn bi thảm hơn nữa khi người đọc tưởng tượng ra cảnh người vợ
chết vì bom đạn, và qua lời thơ bi thiết :
Những chiều
hành quân
qua những đồi sim
Màu tím hoa
sim
Tím cả chiều hoang biền biệt
Nhìn áo
rách vai
Tôi hát trong màu hoa…
Cái chết ở
đây là do tai nạn, thời nào, nơi nào, cũng có thể xảy ra: nhưng đã xảy ra trong
thời chiến tranh; và tác giả lại khéo lồng vào khung cảnh khói lửa:
Ba người
anh từ chiến trường Đông Bắc
Được tin em
gái mất
trước tin em lấy chồng…
Do đó bài
thơ có giá trị truyền cảm và biểu tượng mạnh mẽ, giới văn học ngày nay gọi là «
liên văn bản ». Điều này không loại trừ chất nghệ thuật của tác phẩm và tài
năng của Hữu Loan, nhưng thời đại cũng đã góp phần hậu thuẫn cho tác phẩm. Chứ
trong một chừng mực nào đó, màu tím hoa sim ở đây là hồi quang của hai sắc hoa
ti gôn, nổi danh một thời của TTKh.
Riêng cái
màu tím ấy, nó đi vào văn học từ bao giờ, bằng con đường nào, vì lý do gì, thì
cũng cần khảo sát, chưa chắc gì nó đã đến từ «
những đồi sim » trong thực tế. Nguyễn Du, quê vùng ấy, tự xưng là « thợ
săn » vùng ấy, trong truyện Kiều đã dùng nhiều màu, ngoại trừ màu tím. Lưu Trọng
Lư, cũng là người địa phương, nhiều lần mô tả rừng sim, trái sim, mà không nói
đến hoa sim. Bùi Giáng, trong nhiều năm, đã chăn dê, chăn bò trong rừng sim
vùng cận sơn, cũng không gợi lên màu « tím chiều hoang biền biệt ». Đây là một
đề tài văn học cần được khảo sát, trước khi lớn tiếng tuyên dương bài thơ này,
bài thơ kia là…hay nhất thế kỷ (!!!).
Chưa kể là
bài thơ Màu tím hoa sim, khi ra đời, đã bị ngăn chặn, vì tính cách bi quan, «
phản chiến » của nó, trong giai đoạn chiến đấu quyết liệt. Bài thơ miêu tả sự
thật mà bị cấm đoán thì càng được truyền tụng, nhất là về phía « bên kia ».Ngay
khi bài thơ ra đời, 1949 tại khu Bốn, Phạm Duy đã phổ nhạc, nhưng chỉ công bố tại
Sài Gòn từ 1971 ; tại khu Năm, Phan Huỳnh Điểu cũng đã phổ nhạc, nhưng…dấu tiệt.
Màu Tím Hoa Sim qua giọng ngâm Hồng Vân
Bài thơ in lần đầu, theo trí nhớ của tôi, là 1955 tại Huế, trong « Tuyển tập thi ca tranh đấu hòa bình », tôi có đọc, nhớ mang máng đâu là nhà xuất bản Anh Minh, tại miền Nam thời đó. Đồng thời đã được nhiều người (Dzũng Chinh, Duy Khánh, Anh Bằng…) phổ nhạc ca hát tràn lan, và phái sinh một số sáng tác kiểu « Mùa hoa sim nở », 1956, tập thơ của Đỗ Tấn (1927- 1984), mô tả tâm sự người vợ có chồng đi tập kết ra Bắc (ghi theo trí nhớ) :
Lấy nhau vừa
đúng mười hôm chẵn,
Và chỉ mười
hôm, e thế thôi,
Độ rày sim
nở,
Tím sim là
tím làn môi,
Là tím cuộc
đời trong giá,
Là tím tình
ta đã lỡ rồi..
Ai người
gây nên màu tím,
Tím sim
trên núi trên đồi,
Tím sim cho
lòng lạnh lắm,
Buồn vương
hiu hắt mái gồi…
Anh có về
không hở anh,
Chim không
đậu nữa trên cành,
Bình hoa đổ
nát,
Bên ngoài
tiếng gió reo nhanh…
Hay bài thơ
được phổ nhạc «hoa trắng thôi cài trên
áo tím» của Kiên Giang, cũng được diễn xướng tùm lum. Tại miền Bắc, sau đó, dường
như in trong một số báo Trăm Hoa, Hà Nội, 1956, do Nguyễn Bính làm tổng biên tập.
Năm 1990 đã được nhà xuất bản Hội Nhà Văn in trong một tập thơ cùng tên «Mầu tím hoa sim» (Chữ Mầu có dấu mũ).
Trong nguồn
thơ kháng chiến tiếp nối, tháng 12 năm 1956, Hữu Loan có bài mừng xuân « Ôm Tết
vào lòng », phấn khởi sau chiến thắng và hòa bình, nhưng vẫn còn bầm tím vết
tích của chiến cuộc :
Tết và mùa
xuân
Như mắt người
ứa lệ
Những người
đầu tang còn
Rối tóc rối
khăn
Ôm Tết vào
lòng
Băng bó lại
mùa xuân
Cùng nói
lên
nói lớn
một lần
Không được
giẫm lên mùa xuân
Không được
giẫm lên Tết nữa
Không được
giẫm chân lên
lòng người.
(Giai Phẩm
Xuân 1957, nxb Văn Nghệ, Hà Nộị)
« không được
giẫm lên lòng người » là một khuynh hướng trong tâm đạo Hữu Loan, thiết tha với
tự do, thường xuyên phản kháng. Ông can dự vào phong trào Nhân văn giai phẩm,
và trên Giai phẩm mùa thu, tập 2, ông có bài « Cũng những thằng nịnh hót », làm
tháng 9-1956 :
Một điều
đau xót
Trong chế độ
chúng ta
Trong chế độ
Dân chủ Cộng hòa
Những thằng
nịnh còn thênh thang đất sống
(…) Chúng
nó ngụy trang
Bằng tổ chức
bằng quan điểm nhân dân
bằng lập trường
chính sách
Chúng nó
còn thằng nào
Là chế độ
chúng ta chưa sạch
Phải làm tổng
vệ sinh cho kỳ hết
mọi thằng.
Những người
đã đánh bại xâm lăng
Đỏ bừng mặt
vì những tên quốc xỉ
Ngay giữa
thời nô lệ
Là người,
chúng ta
không ai biết
cúi đầu.
Trên Giai
phẩm mùa đông, tập 1, tháng 12.1956, ông còn có truyện ngắn « Lộn sòng » mô tả
những tiêu cực trong đời sống khó khăn của giáo giới Thanh Hóa.
Nhà thơ Hữu Loan và vợ - bà Phạm thị Nhu |
Năm 1958,
sau vụ án Nhân văn Giai phẩm, ông bỏ công việc biên tập viên của nhà xuất bản
Văn Nghệ, bỏ Đảng, bỏ Hà Nội, về Thanh Hóa sống lao động lam lũ và vất vả : đốn
củi, thồ củi, thồ đá bằng xe bò bánh gỗ và bị đàn áp mọi mặt. Ông vẫn dũng cảm
và kiên quyết sống bất khuất, nuôi nấng mười người con.
Năm 1988, Hữu
Loan lại xuất hiện trong thời sự văn chương và chính trị, vì tham gia một chuyến
đi xuyên Việt do một vài anh em văn nghệ tỉnh Langbian tổ chức, để cổ động cho
tự do, dân chủ, và có bài thơ Chuyện Di Tề :
Lịch sử là
một
trò hề
diễn lại
diễn đi
chưa
có
gì
mới mẻ
chỉ có bọn
Trùm Hề
là
nhiều
ngón
bịp
mới hơn
Trong bối cảnh
đó, ông tự chọn cách tồn tại :
Tôi là cây
gỗ
vuông
chành chạnh
suốt đời
đã làm thất bại
mọi âm mưu đẽo tròn
để muốn tuỳ
tiện
lăn lóc thế nào
thì lăn lóc.
Chân
tính
đấy
Hỡi
Rìu
Bào
Phó mộc
Lưu ý : những
chữ Rìu, Bào, Phó mộc viết hoa.
***
Người xưa
có câu « cái quan luận định », đến lúc đậy nắp quan tài mới đánh giá được một đời
người. Ngày nay sự việc càng có phần phức tạp hơn.
Nhưng với Hữu
Loan qua cuộc đời dài non thế kỷ, sôi nổi, khói lửa, truân chuyên, đánh giá kiểu
gì đi nữa thì chúng ta đều phải ghi lại hai điểm son : tài hoa và tiết tháo.
Làm nhớ đến
một câu văn tế xa xưa :
Ngọc dầu
tan,
vẻ trắng nào phai
Trúc dẫu
cháy,
tiết ngay vẫn để.
Đặng Tiến
http://www.diendan.org/nhung-con-nguoi/huu-loan-111eo-ca-1/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét