(Viết
từ chuyện kể của gia đình anh Phạm T H, một người bà con trong họ)
Buổi
trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975 tôi đang ngồi trong căng tin của nhà máy hoá chất
Việt Trì thì tai nghe những tiếng hét ầm ĩ đầy vui nhộn từ phòng thông tin của
công đoàn nhà máy: Thắng rồi ... chúng ta đã toàn thắng... Dương văn Minh đầu
hàng rồi. Nghe vậy, tôi bỏ dở cốc nước chè cùng vài người chạy vội ra xem. Một
nhóm công nhân đang vây chung quanh anh Minh, thư ký công đoàn nhà máy đang
loan báo tin vừa nhận được qua đài tiếng nói Việt Nam là xe tăng quân giải
phóng chiếm lĩnh Dinh Độc Lập và Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng. Những tiếng
hét lớn vui mừng một lần nữa lại vang lên sau lời nói của anh Minh.
Những ngày trước đây, kể từ sau cuộc chiến ở Buôn
Mê Thuột thì đoàn thanh niên lao động Hồ chí Minh đã làm một áp phích lớn ảnh bản
đồ 44 tỉnh của miền Nam Việt Nam. Trên tấm áp phích đó, cứ mỗi khi được tin giải
phóng tỉnh nào xong thì lập tức tỉnh đó được anh Minh vẽ một lá cờ Đỏ sao Vàng
vào ngay. Tôi đã thấy càng lúc càng nhiều lá cờ Sao này xuất hiện trên tấm áp
phích đó. Vậy mà bây giờ đã giải phóng được Sài Gòn. Thật mừng! Thôi thế là
xong chiến tranh và những thanh niên miền Bắc sẽ không còn phải xuôi Nam chiến
đấu trong chiến trường B nữa.
Một cảm giác khó tả đang lâng lâng trong người
khi nghĩ về người cha ruột mà đã xa cách hai mẹ con tôi tới 21 năm trời. Không
biết trong đó, bố tôi bây giờ ra sao? Một
suy nghĩ mà đã có từ rất lâu về ông. Ngay sau tin toàn thắng và như để cùng
chào mừng với niềm vui lớn của đất nước, trừ những khâu cần phải vận hành máy
chạy liên tục. Tất cả các khâu lao động trong các phân xưởng các phòng ban khác
được ban lãnh đạo nhà máy cho nghỉ việc sớm hơn ngày thường. Tôi vội đạp xe về
nhà báo tin cho mẹ tôi biết tin vui này.
Về
nhà, mẹ tôi ngồi tư lự ở trên giường. Chưa kịp kể chuyện vừa được nghe thì mắt
bà sáng lên khi thấy tôi, hỏi:
-
Sao nay con về sớm vậy? Bộ đội vào tới Sài Gòn rồi con biết chưa?
Tôi
trả lời mẹ là đã biết rồi, được nhà máy cho về nghỉ sớm định nói mẹ biết đây. Mẹ
tôi ngồi đó như đang suy nghĩ điều gì trong lòng. Tôi cởi áo, đi ra giếng nước
sau nhà múc nước tắm rồi quay trở vào mà vẫn thấy mẹ tôi ngồi yên một chỗ. Tôi
bước lại bên bà, hỏi:
-
U sao vậy? Tay tôi đặt lên trán của bà và hỏi tiếp: U cảm hay sao nói cho con
biết với.
Mẹ
tôi khẽ nhìn tôi, miệng cười mỉm rồi nói:
-
Không con. Mẹ vẫn khỏe, có điều mẹ đang nghĩ về thầy con thôi. Không biết thầy
con bây giờ trong đó như thể nào?
Tôi
liền đi mở cái tủ gỗ gụ cũ, lục lọi trong đó và lấy ra đưa cho mẹ tôi xem tấm ảnh
chụp của cha tôi. Đó là một tấm ảnh đen trắng đã cũ, ố vàng. Trong ảnh, một người
đàn ông mặc bộ quần áo lính rằn ri, vẻ mặt nghiêm nghị đứng cạnh lề đường của một
khu nào đó trong thành phố Sài Gòn. Tấm ảnh này là tấm duy nhất mà mẹ tôi nhận
được từ khi hai miền Nam-Bắc còn cho liên lạc bằng thư từ.
Cha
tôi, một người lính Việt trong lực lượng nhẩy dù thuộc quân đội liên hiệp Pháp.
Những ngày cuối cuộc chiến năm 1954, đơn vị của ông đã được máy bay thả xuống
tiếp sức cho căn cứ Điện biên Phủ để cuối cùng, căn cứ nầy lọt vào tay bộ đội
Việt Minh. May mắn ba tôi thoát chết nhưng bị bắt làm tù binh rồi sau đó ông được
trả tự do và trở về đơn vị cũ trú đóng tại Hà Nội. Những ngày cuối của hiệp định
Giơ ne vơ, ông đã cho người về quê tận Sơn Tây để đón mẹ con tôi lên Hà Nội để
cùng ông di cư vào Nam nhưng thất bại. Không gặp được hai mẹ con tôi, ông phải
theo đơn vị vào Sài Gòn trước. Thực ra chuyến đi ra Hà Nội khi đó, đoàn người
làng trong đó có hai mẹ con tôi đã bị bộ đội Việt Minh lừa đưa vào dấu kín
trong một khu rừng vắng. Khi thời hạn di cư vào Nam chấm dứt, gia đình tôi bị
chia cắt kể từ đó. Năm đó tôi mới được gần một tuổi.
Mẹ
bế tôi quay trở về Hà Nội, sống trong gian nhà của ông ngoại tôi. Là dân gốc thủ
đô, mẹ tôi biết cắt may quần áo rất khéo. Nhờ cái khéo tay này mà bà đã nuôi
tôi cho tới khi khôn lớn. Tôi được nghe kể là các cán bộ nhà nước đã tìm bà để
đặt may quần áo cho họ rồi khi các hợp tác xã may mặc giải thể, bà mua được một
máy may cũ và nhờ vậy mà cuộc sống hai mẹ con cũng đỡ vất vả so với nhiều gia
đình khác.
Tuổi ấu thơ của tôi gắn liền với các đường phố Hà Nội. Trong ký ức,
tôi vẫn nhớ những buổi trưa mùa hè cùng chúng bạn đi lang thang vào vườn bách
thú, thả bộ dọc bờ hồ Tây hoặc trèo lên những cây bên vệ đường để bắt các chim
non trong tổ. Có lúc còn rình ném đá vào nhà hàng phố để rồi cả bọn ù té chạy
khi chủ nhà mở cửa ra nhìn.
Khi lớn hơn thì tôi mới nhận ra những khác biệt giữa
tôi và các bạn đồng trang lứa mỗi lần nghe chuyện chiến tranh về miền Nam. Có
những sinh hoạt, hội họp chung mà tôi không được phép tham dự. Lúc đó tôi cũng
không hiểu tại sao? Về hỏi mẹ thì bà chỉ nói: Thôi con, họ không cho thì về nhà
với mẹ. Rồi những năm cuộc chiến lan ra miền Bắc. Máy bay Mỹ ném bom nhiều nơi
và ngay tại thủ đô Hà Nội nữa. Những đợt bom chùm tuốt từ trên mây rơi xuống đã
phá huỷ nhiều khu phố lớn. Cảnh người bị thương, người chết mất xác trong các đống
gạch vụn mà lửa khói cháy nghi ngút khiến ai cũng phải kinh hãi. Đành phải đi
sơ tán về các miền quê xa cho an toàn. Hai mẹ con tôi về quê nội trong một làng
nhỏ ở tỉnh Sơn Tây cũ. Bọn thiếu niên trong làng này chúng ghét tôi ra mặt. Thỉnh
thoảng, tôi vẫn nghe có đứa nói xấu về bố tôi mà tôi chỉ biết im lặng vì không
biết phải trả lời làm sao? Người lớn trong làng cũng có người nói sau lưng mẹ
tôi mỗi khi họ gặp mặt nhau trên đường hoặc trong các phiên chợ. Tôi đành kết bạn
với mẹ mà không là ai khác.
Tuổi
trưởng thành, nhiều thanh niên trong làng xung phong vào bộ đội. Không hiểu
sao, tôi tìm gặp ban tuyển quân xin đi nhưng bị cán bộ phụ trách từ chối. Tôi về
kể lại cho mẹ tôi biết. Bà đã chép miệng nói là làm sao mà họ cho con vào bộ đội
được rồi trách khẽ: Có mỗi một mình mẹ mà con định bỏ đi thật sao! Không thương
mẹ à? Thực sự, lúc nào tôi cũng thương mẹ. Tôi rất chật vật để xin một việc
làm. Nộp đơn nhiều nơi mà không thấy ai gọi. Tôi học cách may quần áo từ mẹ, định
là chắc sẽ phải theo cái nghề nầy dù tôi không thích. May mắn làm sao, một hôm mẹ tôi tình cờ gặp lại
một người bạn học cũ của bà khi còn trẻ. Người bạn cũ mẹ tôi nay đã là một cán
bộ cao cấp trong chính quyền và nhờ sự giúp đỡ của ông, tôi đã vào làm việc
trong nhà máy hoá chất Việt Trì này. Rồi cũng nhờ người cán bộ đó can thiệp mà
tôi mới được công đoàn nhà máy phân cho một phòng nhỏ nằm trong khu nhà công
nhân. Tôi đưa mẹ lên đó cùng sống chung.
Một đường phố trong thủ đô Hà Nội cuối thập niên 1960 |
Một khu phố ở Sài Gòn trong cùng một thời điểm với miền Bắc. |
Vài
tháng sau ngày toàn thắng miền Nam, mẹ tôi về Hà Nội để tìm hỏi tung tích cha
tôi. Trong họ hàng bên nội, có người vào miền Nam công tác và qua đó tìm các
thân nhân theo các địa chỉ cũ từ năm xưa. Khi quay về miền Bắc, người bà con
này đã gặp mẹ tôi và cho biết các tin tức trong miền Nam. Theo đó, cha tôi là một
sĩ quan quân đội cao cấp của chính quyền Sài Gòn và ông đã đi học tập cải tạo.
Thêm một tin nữa là cha tôi đã lập gia đình khác và có hai người con gái. Quay
về nhà cho tôi biết và khi kể chuyện, không hiểu vì nghĩ đến các chữ học tập cải
tạo rồi liên tưởng những cảnh tù tội của cha tôi năm xưa lúc bị bắt làm tù binh
hay vì cám cảnh thân phận mà mẹ tôi khóc rất nhiều. Mẹ tôi nói học tập cải tạo
khác gì người ở miền Bắc bị lệnh tập trung như trước giờ tôi đã biết.
Dỗ
mẹ đừng khóc nhưng rồi tôi cũng khóc theo bà.
Mẹ
tôi rất muốn đi vào miền Nam ngay để biết thêm các tin tức về cha tôi nhưng khi
đó giao thông hai miền còn rất khó khăn. Việc đi lại vẫn còn hạn chế, chỉ ưu
tiên cho những cán bộ đi công tác. Tôi cũng không hề nghĩ là có ngày mình sẽ đặt
chân vào miền Nam vào thành phố Sài Gòn nếu như không có một việc là nhà máy
hoá chất Việt Trì tổ chức một cuộc họp lớn với sự tham dự của cán bộ từ tổng cục
hóa chất ở trung ương về chủ trì. Theo đó, nhà nước cần khá đông cán bộ và công
nhân viên trong ngành xung phong vào tiếp quản các nhà máy hóa chất ở miền Nam.
Tin về miền Nam đói nghèo và lạc hậu do chính những bộ đội miền Bắc vừa từ chiến
trường B trở về kể lại trước đó đã làm con số người xung phong đếm chỉ được
trên đầu ngón tay. Ai cũng sợ khổ sợ xa gia đình, đó là lẽ thường và tôi cũng vậy.
Không đủ người xung phong, công đoàn nhà máy đành phải chỉ định và tên tôi đã
được họ chọn. Nghe tin, tôi rất ức nhưng dù khiếu nại hoàn cảnh con một có mẹ
đã già mà không được công đoàn xem xét. Tôi đành phải chuẩn bị hành lý để theo
đoàn vào Nam thôi.
Đi
vào Nam bằng xe vận tải vì khi đó tuyến đường sắt bị phá hỏng trong thời chiến
tranh vẫn chưa sửa xong. Chúng tôi cả thẩy là 18 người ngồi hoặc nằm chung với
hành lý trên một chiếc xe Molotova cũ kỹ trong đoàn xe này. Đây là chuyến đi xa
nhất từ trước tới nay của tôi nên lúc nào tôi cũng ngắm nhìn hai bên đường.
Xe
qua các con phố, xóm làng ở miền Bắc thì không nói làm gì nhưng khi vừa vào địa
giới của miền Nam thì cả đoàn chúng tôi đã thấy ngay sự khác biệt dù không ai
nói ra. Nhà cửa của người dân cùng các công trình đô thị như cầu, đường xá gần
các trục lộ giao thông trông rất đẹp và văn minh hơn hẳn miền Bắc. Chúng tôi đi
rồi nghỉ ngơi rồi đi tiếp cho đến khi đoàn xe đến khu công nghiệp Biên Hoà. Quá
nhiều nhà máy được xây dựng tại đây. Cả đoàn 18 người chúng tôi hết nhìn ngang
lại nhìn dọc từng nhà máy trong khu vực này. Không ai nói ra mặt nhưng đều trầm
trồ, choáng ngợp trước công nghiệp của miền Nam. Rồi chúng tôi được phân công
vào làm việc trong một nhà máy có cái tên là lạ VICACO. Đây là một nhà máy sản
xuất chất sút từ muối biển và a xít cờ lo hy ríc. Một nhà máy bề ngoài trông rất
nhỏ mà không ngờ bên trong lại có các máy móc thật tối tân, sản xuất được các
hóa chất với hàm lượng rất cao gấp nhiều lần so với công nghệ đang có tại miền
Bắc.
Chúng tôi rất ngạc nhiên và ngầm thán phục trong lòng. Nhìn những công
nhân miền Nam đang làm việc tại đây rồi sau đó khi công tác chung với họ, tôi mới
thấy người dân miền Nam khác xa với người dân miền Bắc. Trình độ chuyên môn và
kiến thức xã hội của họ hơn hẳn chúng tôi. Kỹ sư hơn hẳn kỹ sư. Công nhân vượt
xa công nhân. Một sự rụt rè và cẩn thận trong giao tiếp tự nhiên nẩy sinh trong
đoàn tiếp quản chúng tôi. Ai cũng sợ người trong nhà máy tại miền Nam này biết
trình độ thực tế của chúng tôi. Sự thật là sợ họ cười về cái lạc hậu của mình.
Về nằm nghỉ trong một căn phòng mà được biết trước đây là các phòng dành cho
công nhân ngủ qua đêm nếu họ phải ở lại. Căn phòng đó thật sạch thật đẹp với
giường chiếu và quạt mát trên tràn nhà tăng ca. Tôi đã suy nghĩ là miền Nam không hề lạc hậu về công nghệ như lời nói
trước giờ vẫn được nghe mà ngay cả trong buổi họp để chọn người xung phong vào
tiếp quản, cán bộ tổng cục cũng đã nói như vậy khi động viên chúng tôi. Ở đây
mà còn như vậy thì trong thành phố Sài Gòn sẽ như thế nào? Chắc chắn phải rất đẹp
và sang trọng, tôi nghĩ thầm.
Rồi
một ngày tôi theo đoàn vào làm các thủ tục công tác tại một toà nhà cao tầng mà
tổng cục hoá chất vừa tiếp quản nay trở thành trụ sở của công ty hóa chất cơ bản
miền Nam nằm gần chợ Bến Thành. Sau khi làm xong các giấy tờ, chúng tôi được
phép thoải mái đi thăm phố xá. Ngay từ lúc ngồi trên xe buýt nhìn cảnh vật của
các đường phố dẫn vào Sài Gòn, tôi đã thấy vượt trội nhiều lần so với thủ đô Hà
Nội.
Một vẻ bề ngoài sáng sủa, văn minh lộ ra từ cách phục sức và sinh hoạt của
người dân miền Nam. Giờ đây đi bộ trên các con đường trong khu trung tâm thành
phố Sài Gòn mới thấy: Tôi, người dân miền Bắc quá sức lạc hậu, nghèo nàn ngay từ
bộ quần áo mặc trên người và xa lạ với các tiện nghi đang được người dân trong
thành phố này sử dụng.
Các cửa hiệu sang trọng đầy ắp hàng hoá thật đẹp và mới
lạ lần đầu chúng tôi trông thấy. Phố nào cũng có những tòa nhà cao tầng to đẹp.
Xe gắn máy hai bánh chạy thật nhiều trên đường. Thật y như đang ở nước ngoài, một
người trong đoàn chúng tôi nói nhỏ cho nhau cùng nghe. Tôi ngẩn ngơ nhìn các cô
gái Sài gòn quá sức là đẹp. Y phục họ mặc trên người và nhất là khuôn mặt của họ,
lộ rõ vẻ thanh lịch và đài các so với những nữ cán bộ trong đoàn chúng tôi chỉ
độc một kiểu như nhau. Hai cô em gái miền Nam của tôi chắc cũng như những cô
gái mà tôi vừa gặp. Tôi mỉm cười khi nghĩ ngày nào đó sẽ gặp hai cô em gái nầy.
Tôi tách ra khỏi đoàn để tự mình đi theo ý muốn. Ghé vào một cửa hàng nước thật
đẹp có tên là Cafe Minirex nằm gần một giao lộ lớn. Tôi nhìn khung cảnh trong cửa
hàng này, thật không khác một cửa hàng ở nước ngoài mà thường thấy trong phim.
Một người hầu bàn thấy tôi vội bước đến cúi đầu chào, rồi hỏi:
-
Thưa ông, ông dùng thức chi?
Trời
ơi! Người hầu bàn này quá lịch sự khi tiếp xúc với khách hàng thật khác hẳn với
cung cách của các cô mậu dịch trong các cửa hàng ăn ngoài miền Bắc chúng tôi.
Hay là người hầu bàn này biết tôi là cán bộ chế độ mới qua bộ quần áo mặc trên
người nên ông ta có sự xưng hô như vậy? Tôi yên lặng ngầm để ý xem sao. Không.
Bất kỳ người khách nào bước vào cửa hàng thì các hầu bàn ở đây cũng một cách tiếp
đón như vậy. Họ rất niềm nở tự nhiên và không khúm núm hoặc hách dịch với
khách.
Thân phận người lính VNCH sau 30.4.1975 |
Tôi ngồi khá lâu trong cửa hàng đó, thầm
nghĩ phải chi có mẹ tôi bên cạnh để bà hết còn lo lắng khi vừa nghe tin tôi phải
đi xa nhưng tự dưng trong tôi lại nẩy sinh một nỗi lo mới. Cha tôi, một sĩ quan
cao cấp trong chính quyền Sài Gòn thì làm sao có thể chịu đựng được cảnh học tập
ở các trại tập trung của chế độ vừa mới chiến thắng đây?
Viết
để tưởng nhớ ngày 30-4-1975.
Phạm
Thắng Vũ
http://quanvan.net/index.php?view=story&subjectid=26435
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét