Danh Sách 24 Liệt Sĩ được truy tặng danh hiệu: ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN trong cuộc chiến tranh biên giới chống quân Trung Quốc Xâm Lược tháng 2/1979
Quang Sơn
(Trí Nhân Media)
Liệt sĩ NGUYỄN XUÂN KIM
Anh Nguyễn Xuân Kim sinh năm 1952, quê ở xã Lạc Long, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Anh Kim đã hy sinh ngay trong ngày đầu tiên của cuộc chiến tranh vệ quốc, ngày 17 tháng 2 năm 1979, tại mặt trận phía Bắc, khi anh mới 27 tuổi. Khi đó anh là thượng sĩ, quyền đại đội trưởng đại đội 6, tiểu đoàn 2, trung đoàn 192 bộ đội địa phương Hoàng Liên Sơn, Quân Khu 2.
Tháng 2 năm 1979, đơn vị anh được giao nhiệm vụ giữ chốt Cốc San ở huyện Bát Sát, tỉnh Lào Cai. Ngày 17 tháng 2, quân Trung Quốc xâm lược cho một tiểu đoàn có pháo binh, xe tăng yểm trợ, chia làm nhiều mũi, từ nhiều hướng đánh phá ác liệt vào trận địa Nguyễn Xuân Kim vẫn bình tĩnh chỉ huy đơn vị, chờ địch đến gần mới nổ súng, tiêu diệt nhiều tên địch. Anh bị thương lần thứ nhất, tự băng bó, tiếp tục chiến đấu. Bị thương lần thứ hai, anh bị ngất, khi tỉnh lại anh tiếp tục chỉ huy đơn vị, tổ chức lực lượng đánh vào sườn và phía sau lưng địch. Bị thương lần thứ ba, do vết thương quá nặng, bị ngất nhiều lần, nhưng mỗi lần tỉnh lại anh vẫn chỉ huy đơn vị chiến đấu. Khi thấy địch đến gần, anh mang hết sức còn lại, gượng dậy, dùng lựu đạn, tiểu liên AK đánh thẳng vào đội hình địch.Anh đã hy sinh sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Ngày 20 tháng 12 năm 1979, liệt sĩ Nguyễn Xuân Kim được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Liệt sĩ PHẠM XUÂN HUÂN
Anh Phạm Xuân Huân sinh năm 1948, quê ở xã Việt Hoà, huyện Cẩm Giàng, nay thuộc phường Cẩm Thượng, thành phố Hải Dương. Hy sinh ngày 28 tháng 2 năm 1979 tại biên giới phía Bắc, lúc 31 tuổi, khi đó anh là trung uý, đại đội trưởng đại đội 10, tiểu đoàn 6, trung đoàn 148, sư đoàn 316 Quân khu 2.
Ngày 22 tháng 2 năm 1979, quân Trung Quốc xâm lược huy động số quân khá đông, có pháo binh yểm trợ, đánh phá vào trận địa của đơn vị, Phạm Xuân Huân vẫn bình tĩnh, chỉ huy mưu trí, linh hoạt, vừa đánh địch phía chính diện, vừa đánh bên sườn và sau lưng, giữ vững trận địa
Đến ngày 23 tháng 2 năm 1979, địch huy động một tiểu đoàn, có pháo binh yểm trợ, đánh vào trận địa của anh, Phạm Xuân Huân đã bình tĩnh, dũng cảm chỉ huy đơn vị chiến đấu quyết liệt, giành giật từng mét giao thông hào, từng công sự chiến đấu. Khi hết đạn, anh đã dùng dao găm đánh giáp lá cà.
Ngày 28 tháng 2 năm 1979, sau nhiều lần thất bại nặng nề, quân Trung Quốc xâm lược huy động một lực lượng lớn, chia làm nhiều hướng, nhiều mũi đánh vào trận địa ta. Anh Huân đã chỉ huy đơn vị chiến đấu suốt từ sáng đến chiều, đánh lui nhiều đợt tiến công của địch và anh dũng hy sinh
Ngày 20 tháng 12 năm 1979, liệt sĩ Phạm Xuân Huân được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Liệt sĩ ĐỖ CHU BỈ
Anh Đỗ Chu Bỉ sinh năm 1952, quê ở xã An Lâm, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Hy sinh ngày 1 tháng 3 năm 1979, khi mới 27 tuổi. Trong cuộc chiến đấu chống quân Trung Quốc xâm lược, anh ở đại đội 6 công an vũ trang tỉnh Quảng Ninh.
Ngày 1 tháng 3 năm 1979, Đỗ Chu Bỉ trực tiếp chỉ huy giữ chốt A1, vị trí án ngữ tuyến đầu, cách biên giới 300m, cách đồn biên phòng Hoành Mô 400m. Ở vị trí quan trọng như vậy, để chiếm vị trí chốt A1, địch đã tập trung pháo binh các loại, bắn liên tiếp suốt 1 tiếng đồng hồ. Pháo vừa dứt, địch ào ạt xông lên. Trong tình huống đó, Đỗ Chu Bỉ vẫn bình tĩnh chờ cho địch đến gần rồi mới hạ lệnh cho đơn vị đồng loạt nổ súng, bắn mãnh liệt.
Sau thất bại của 2 lần tiến công, quân Trung Quốc xâm lược tăng viện chia thành 2 mũi: Một mũi đánh đồn biên phòng Hoành Mô, một mũi đánh chốt A1. Đỗ Chu Bỉ chỉ huy cả đơn vị đánh địch cả hai hướng Anh bị thương vào tay, vào sườn, vẫn không rời trận địa. Cuộc chiến đấu kéo dài, ngày càng ác liệt, trời lại mưa, chiến hào lầy lội, anh tổ chức đưa thương binh, tử sĩ sang chốt A2, tiếp tục bảo vệ chốt A1. Địch liên tiếp phản công, anh vẫn bình tĩnh chỉ huy đơn vị chiến đấu và đã hy sinh tại mặt trận.
Ngày 19 tháng 12 năm 1979, liệt sĩ Đỗ Chu Bỉ được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Liệt sĩ PHAN BÁ MẠNH
Anh Phan Bá Mạnh sinh năm 1952,quê xã Tế Nông, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hoá. Nhập ngũ năm 1972. Khi hy sinh anh là trung uý, đại đội trưởng C10, D3, E2, F3, QĐ14, QK1.
Trong cuộc chiến đấu chống quân Trung Quốc xâm lược ở biên giới phía Bắc tháng 2 năm 1979, Phan Bá Mạnh đã nêu cao tinh thần dũng cảm, chỉ huy mưu trí linh hoạt, dù địch đông đến mấy cũng kiên quyết chiến đấu.
Ngày 20/2/1979, địch chiếm đồi Chậu Cảnh, chúng dùng hoả lực mạnh bắn chặn ta rất ác liệt. Anh chỉ huy đơn vị tiến công hướng chủ yếu của tiểu đoàn, nhanh chóng thọc sâu chia cắt đội hình địch, diệt gần 100 tên, thu 8 súng và 1 máy thông tin vô tuyến điện.
Ngày 23-2, địch bắn pháo dữ dội để yểm trợ bộ binh chúng tiến công trận địa của đại đội Phan Bá Mạnh. Anh đã bình tĩnh chờ địch đến gần mới cho đơn vị đồng loạt nổ súng diệt hết lớp địch này đến lớp địch khác, đánh bại nhiều đợt tiến công của chúng.
Ngày 27-2, địch cho 1 tiểu đoàn được pháo binh yểm trợ tiến công vào chốt đồi phía nam Bản Phân. Phan Bá Mạnh chỉ huy đơn vị chiến đấu dũng cảm Phan Bá Mạnh đã anh dũng hy sinh khi chiến đấu với kẻ thù.
Ngày 20/12/1979 liệt sĩ Phan Bá Mạnh được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
Liệt sĩ PHẠM NGỌC YỂNG
Anh Phạm Ngọc Yểng sinh năm 1953, dân tộc Kinh. Quê xã Việt Hoà, huyện Châu Giang, tỉnh Hải Hưng. Nhập ngũ tháng 8-1971. Khi hy sinh anh là trung uý, chính trị viên C2, D4, E12, F3, QĐ14, QK1.
Trong cuộc chiến đấu chống quân Trung Quốc xâm lược ở biên giới phía Bắc, đại đội của Phạm Ngọc Yểng được giao nhiệm vụ chốt giữ đồi Thâm Mô. Địch muốn chiếm Đồng Đăng phải chiếm được đồi này nên chúng dùng pháo bắn phá rất ác liệt và hàng chục lần cho bộ binh với số lượng đông chia làm nhiều mũi tấn công lên chốt.
Phạm Ngọc Yểng động viên mọi người kiên quyết giữ chốt, chiến đấu dũng cảm, giành giật quyết liệt với địch từng mỏm đồi, từng hầm hào, công sự.
Ngày 19 và 20-2, quân Trung Quốc xâm lược tập trung hoả lực và bộ binh có xe tăng yểm trợ liên tiếp mở những đợt tiến công lên chốt. Khu vực chốt có 6 mỏm núi, địch chiếm được 5, Phạm Ngọc Yểng vẫn bình tĩnh động viên mọi người kiên quyết chiến đấu.
Ngày 26-2, địch lại dùng pháo binh bắn phá dữ dội và cho bộ binh tiến công lên chốt. Sau khi diệt được một số địch thì hết đạn, 2 tên địch xông đến bắt. Phạm Ngọc Yểng đã dũng cảm vật lộn với 2 tên địch, được 1 chiến sĩ đến hỗ trợ, anh và người chiến sĩ đã quật chết 2 tên địch. Sau đó anh tiếp tục chiến đấu và đã anh dũng hy sinh.
Ngày 20-12-1979, liệt sĩ Phạm Ngọc Yểng được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
Liệt sĩ TRẦN NGỌC SƠN
Anh Trần Ngọc Sơn sinh năm 1958, quê phường Trương Định, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Nhập ngũ tháng 5-1978. Khi hy sinh anh mới 21 tuổi, là binh nhất, tiểu đội phó C16 công binh, E12, F3, QĐ14, QK1.
Ngày 17-2-1979, quân Trung Quôc xâm lược được pháo binh yểm trợ bắn phá dữ dội vào trận địa , sau đó dùng lực lượng bộ binh tiến công chiếm trận địa chốt của đại đội. Trần Ngọc Sơn chiến đấu rất dũng cảm, mưu trí, biết cơ động, nghi binh lừa địch, chờ quân địch đến gần mới nổ súng, khi dùng lựu đạn, khi dùng tiểu liên bắn. Anh bị thương vẫn tiếp tục ở lại chiến đấu, đến khi chỉ còn 1 quả lựu đạn, Trần Ngọc Sơn dũng cảm chờ địch đến gần mới ném vào giữa đội hình địch và anh dũng hy sinh.
Ngày 20-12-1979, liệt sĩ Trần Ngọc Sơn được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Liệt sĩ PHAN ĐÌNH LINH
Anh Phan Đình Linh sinh năm 1953, quê xã Xuân Yên, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Nhập ngũ tháng 8-1971. Khi hy sinh anh là trung uý, học viên trường Sĩ quan chính trị, thực tập tại C10, D6, E677, F346, QK1.
Trong cuộc chiến đấu chống quân Trung Quốc xâm lược ở biên giới phía Bắc, Phan Đình Linh là học viên trường sĩ quan chính trị đi thực tế ở đơn vị cơ sở. Nhưng anh đã nêu cao tinh thần chiến đấu dũng cảm, chỉ huy mưu trí, linh hoạt, chỗ nào khó khăn, nguy hiểm đều có mặt, kịp thời động viên đơn vị giữ vững quyết tâm, kiên quyết đánh địch.
Ngày 19-2-1979, địch cho lực lượng lớn đánh phá ác liệt và tấn công vào đội hình của đơn vị. Cuộc chiến đấu mỗi lúc một ác liệt hơn. Đến 10 giờ địch đã chiếm được một số đoạn giao thông hào. Đại đội chỉ còn 4 người, đạn dược ít dần. Phan Đình Linh chỉ huy đơn vị bám sát địch, cướp súng địch đánh địch. Khi hết đạn anh dùng lưỡi lê đâm chết 1 tên. 1 tên khác xông đến, anh khôn khéo quật ngã tên này. Địch ném lựu đạn về phía anh, Phan Đình Linh nhặt ném trả lại, diệt nhiều tên, và đã anh dũng hy sinh ngay trên trận địa.
Ngày 20-12-1979, liệt sĩ Phan Đình Linh được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
Liệt sĩ TRẦN TRỌNG THƯỜNG
Anh Trần Trọng Thường sinh năm 1958, quê xã Thanh Sơn, huyện Nam Thanh, tỉnh Hải Hưng. Nhập ngũ tháng 6-1977. Khi hy sinh anh là hạ sĩ, tiểu đội trưởng C51, D5, E12, F3, QĐ14, QK1.
Trong đợt chống quân Trung Quốc xâm lược ở biên giới phía Bắc, Trần Trọng Thường chiến đấu ở tây bắc Đồng Đăng (Lạng Sơn). Mặc dù lực lượng địch đông được pháo bắn yểm trợ đánh phá ác liệt, Trần Trọng Thường đã bình tĩnh chờ địch đến gần mới nổ súng, diệt 7 tên, chỉ huy tiểu đội diệt nhiều địch.
Từ ngày 25 đến 28-2, địch sử dụng lực lượng lớn đánh phá vào khu vực trận địa của đơn vị. Trần Trọng Thường động viên tiểu đội giữ vững quyết tâm đánh địch.
Ngày 2-3-1979, sau khi diệt một số địch thì súng hết đạn, địch xông đến, anh dùng báng súng đập chết 1 tên.
Ngày 3-3-1979, trong lúc đang dẫn đầu một bộ phận tiến công vào đội hình địch thì anh bị trúng đạn và anh dũng hy sinh.
Ngày 20-12-1979, liệt sĩ Trần Trọng Thường được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
Liệt sĩ HOÀNG QUÝ NAM
Anh Hoàng Quý Nam sinh năm 1950, quê xã Thọ Xương, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Nhập ngũ tháng 1-1973. Khi hy sinh anh là thiếu uý, đại đội trưởng C42, D4, E12, F3, QĐ14, QK1.
Từ ngày 17 đến 25-2-1979, Hoàng Quý Nam chiến đấu ở khu vực Đồng Đăng (Lạng Sơn). Anh đã nêu cao tinh thần dũng cảm, mưu trí, chỉ huy đơn vị đánh địch
Từ ngày 17 đến 19-2, tuy bị mất liên lạc với tiểu đoàn, Hoàng Quý Nam vẫn chỉ huy đơn vị kiên quyết bám trụ pháo đài sát thị trấn Đồng Đăng, đánh địch quyết liệt, giành giật với địch từng công sự, hầm hào, đẩy lùi hàng chục đợt tiến công.
Ngày 20-2, địch dùng pháo bắn phá ác liệt và cho xe tăng, bộ binh ồ ạt tấn công. Chúng dùng bộc phá phá sập cửa hâm, vây quanh gọi hàng. Hoàng Quý Nam chiến đấu kiên cường, bị thương vẫn không rời trận địa.
Ngày 23-2-1979, địch lại mở liên tiếp nhiều đợt tiến công vào trận Anh chỉ huy đơn vị chiến đấu quyết liệt và đã hy sinh trong khi đang chỉ huy đơn vị chiến đấu.
Ngày 20-12-1979, liệt sĩ Hoàng Quý Nam được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
Liệt sĩ ĐỖ SĨ HỌA
Anh Đỗ Sĩ Họa sinh năm 1946, quê ở xã Hồng Vân, huyện Ân Thi, tỉnh Hải Hưng. Khi hy sinh anh là thượng úy, phó đồn trưởng Đồn 209, Công an nhân dân vũ trang tỉnh Quảng Ninh.
Ngày 17 tháng 2 năm 1979, quân Trung Quốc xâm lược ồ ạt tấn công, đồn trưởng đi công tác xa. Đỗ Sĩ Họa đã khẩn trương triển khai đội hình chiến đấu theo phương án, trực tiếp phụ trách hướng chính diện. Đồn và các chốt bị pháo và cối của địch bắn cấp tập. Ở vị trí chỉ huy, Đỗ Sĩ Họa bình tĩnh quan sát địch. Khi địch ngừng bắn pháo để bộ binh xông lên, anh đã dũng cảm, mưu trí chỉ huy đơn vị bẻ gãy nhiều đợt tấn công của địch, diệt và làm bị thương nhiều tên. Phát hiện hỏa lực lợi hại của ta ở Đồi Quế, địch dùng chiến thuật biển người ào lên. Các chiến sĩ chốt trên Đồi Quế ngoan cường chiến đấu, diệt nhiều tên địch. Nhưng vì lực lượng quá chênh lệch, Đồi Quế đã bị địch chiếm giữ. Quyết giành lại, Đỗ Sĩ Họa đã tổ chức lực lượng tấn công địch, chiếm lại được Đồi Quế.
Đỗ Sĩ Họa bị thương lần thứ nhất, lần thứ hai, lần thứ ba cho đến lúc anh dũng hy sinh cũng không rời trận địa. .
Ngày 19 tháng 12 năm 1979, liệt sĩ Đỗ Sĩ Họa được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Liệt sĩ LỘC VIỄN TÀI
Anh Lộc Viễn Tài sinh năm 1940, dân tộc Tày, quê ở xã Vĩ Thượng, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang. Khi hy sinh anh là thượng úy, đồn trưởng Đồn 155, Công an nhân dân vũ trang Hà Tuyên.
Lộc Viễn Tài là cán bộ đã chỉ huy đơn vị đánh nhiều trận xuất sắc, đạt hiệu suất chiến đấu cao, giữ vững được trận địa bảo vệ được dân.
Sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979, quân Trung Quốc xâm lược dồn dập bắn pháo, cối dọn đường, rồi thúc quân ồ ạt tấn công Đồn 155 . Lộc Viễn Tài bình tĩnh quan sát địch, đồng thời đi sát động viên từng chiến sĩ quyết tâm chiến đấu bảo vệ đồn.
Bị thiệt hại nặng, địch cho bộ binh lui rạ để củng cố đội hình, đồng thời cho pháo bắn cấp tập vào trận địa ta. Nhưng khi bộ binh địch lại xông lên, chúng đã bị cán bộ, chiến sĩ Đồn biên phòng 155 đánh bật ra.
Ngày 5 tháng 3 năm 1979, địch tập trung lực lượng quyết chiếm Đồn 155 và cao điểm 1379
. Lợi dụng sương mù, Lộc Viễn Tài đã tổ chức lúc lượng phục kích, đánh dồn địch vào hầm chông, bãi mìn gài sẵn, diệt nhiều tên, buộc địch phải thu quân, củng cố đội hình, rồi mở đợt tiến công mới. Lộc Viễn Tài chỉ huy một tổ chặn đánh địch từ xa, chia cắt đội hình địch ra, tiêu diệt nhiều tên. Quân địch quá đông, đạn sắp hết, anh lệnh cho hai chiến sĩ rút lui, còn mình dùng những viên đạn cuối cùng ghìm chân địch, bảo vệ đồng đội. Trong tay còn hai quả lựu đạn, Lộc Viễn Tài chờ địch đến gần, anh giật nụ xòe, ném vào đội hình địch, diệt thêm gần chục tên và đã anh dũng hy sinh.
Ngày 19 tháng 12 năm 1979, liệt sĩ Lộc Viễn Tài được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Liệt sĩ NÔNG VĂN GIÁP
Anh Nông Văn Giáp sinh năm 1945, dân tộc Nùng, quê ở xã Yên Bình, huyện Hữu Lũng, tỉnh lạng Sơn. Khi hy sinh anh là trung úy, đồn phó Đồn 191, Công an nhân dân vũ trang tỉnh Lạng Sơn..
Sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979, quân Trung Quốc xâm lược ồ ạt tấn công. Chúng dùng pháo bắn cấp tập vào đồn sau đó cho bộ binh địch xông lên. Nông Văn Giáp bình tĩnh chỉ huy đơn vị bẻ gãy nhiều đợt tấn công của địch. Dùng chiến thuật biển người, vừa tấn công chính diện, địch vừa đánh tạt sườn vào trận địa . Phát hiện sớm mưu đồ của địch, anh chỉ huy đơn vị chiến đấu linh hoạt, cơ động, ngay từ đầu đã diệt được cụm thông tin, chỉ huy và hai tên thổi kèn. Đội hình địch rối loạn, chúng buộc lui quân, tổ chức đợt tấn công mới.
Địch lại cho nhiều tốp, nhiều toán, có hỏa lực yểm trợ, liên tục tấn công. Anh bị thương nặng cố lê người dùng sức còn lại bắn mãnh liệt vào đội hình địch, bẻ gãy nhiều đợt tấn công của chúng và anh dũng hy sinh.
Ngày 19 tháng 12 năm 1979, liệt sĩ Nông Văn Giáp được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Liệt sĩ Nguyễn Vũ Tráng
Anh Nguyễn Vũ Tráng sinh năm 1948, quê ở xã Minh Đức, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Khi hy sinh anh là trung úy, chính trị viên phó Đồn 1, công an nhân dân vũ trang Lai Châu.
Sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979, quân Trung Quốcxâm lược bắn hàng ngàn quả pháo, rồi cho bộ binh ồ ạt tấn công Đồn biên phòng số 1. Theo phương án đã được xây dựng và luyện tập,anh chỉ huy mũi chính diện, chặn bước tiến của địch. Ngay loạt đạn đầu, đơn vị đã diệt nhiều tên,
Ngày 6 tháng 3 năm 1979, lợi dụng sương mù, địch cho nhiều mũi tấn công vào đồn và Đại đội 5 của Công an nhân dân vũ trang Lai Châu. Hiệp đồng chặt chẽ với Đại đội 5, Nguyễn Vũ Tráng chỉ huy đơn vị đánh địch quyết liệt Bị thương gãy cả hai chân, Nguyễn Vũ Tráng vẫn chỉ huy đơn vị chiến đấu.
Khi có lệnh lùi về phía sau, anh xin ở lại cản giặc. Thấy chỉ còn một mình anh địch hò hét xông lên. Nguyễn Vũ Tráng dùng lựu đạn và súng AK đánh trả địch, diệt nhiều tên nữa và anh dũng hy sinh.
Ngày 19 tháng 12 năm 1979, liệt sĩ Nguyễn Vũ Tráng được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Liệt sĩ NGUYỄN ĐÌNH THUẦN
Anh Nguyễn Đình Thuần sinh năm 1953, dân tộc Kinh, quê ở xã Thanh Dương, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Khi hy sinh anh là trung úy đại đội trưởng Đại đội 2, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 12, Bộ Tư lệnh Công an nhân dân vũ trang.
Ngày 17 tháng 2 năm 1979, một trung đoàn quân Trung Quốc xâm lược có xe tăng và pháo yểm trợ, tấn công vào trận địa của đơn vị do anh phụ trách. Hướng chính diện địch có 2 tiểu đoàn. Anh lệnh cho cối và hỏa lực của đơn vị bắn tập trung vào đội hình địch, đẩy lùi đợt tấn công của chúng. Bị thương gãy nát cánh tay, anh tự băng bó, tiếp tục chỉ huy chiến đấu, đẩy lùi đợt tấn công mới của địch.
Địch lại ồ ạt xông lên hết đợt này đến đợt khác. Nguyễn Đình Thuần tiếp tục chỉ huy đơn vị đẩy lùi ba đợt tấn công nữa của địch và anh dũng hy sinh.
Ngày 19 tháng 12 năm 1979, liệt sĩ Nguyễn Đình Thuần được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Liệt sĩ VÕ ĐẠI HUỆ
Anh Võ Đại Huệ sinh năm 1952, quê ở xã Nghi Xá, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Khi hy sinh anh là trung úy, đại đội trưởng Đại đội 11, Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 16, Công an nhân dân vũ trang.
Sáng 17 tháng 2 năm 1979, quân Trung Quốc xâm lược cho pháo các cỡ bắn cấp tập, rồi dùng bộ binh có xe tăng yểm trợ ồ ạt tấn công vào khu vực Mường Khương, anh đã chỉ huy đơn vị đánh trả địch quyết liệt, làm cho bộ binh địch không phối hợp được với xe tăng của chúng, phải ùn lại. Võ Đại Huệ lệnh cho hỏa lực bắn chính xác vào đội hình địch, đồng thời trực tiếp chỉ huy một tổ dùng B40 chặn đánh xe tăng ở ngã ba Mạn Tuyển.Anhí dẫn tổ B40 chạy tắt đường, đón đánh.
Sáng ngày 18 tháng 2 năm 1979, được pháo yểm trợ, địch cho lực lượng chia thành ba mũi tấn công lên núi Na Khuy. Võ Đại Huệ mưu trí và dũng cảm chỉ huy đơn vị đánh bật địch xuống, giữ vững trận địa. Cuộc chiến đấu ác hệt kéo dài nhiều tiếng đồng hồ. Bị thương vào tay, nhưng anh vẫn bình tĩnh chỉ huy và động viên chiến sĩ quyết tâm chiến đấu, diệt nhiều địch, giữ vững trận địa. 11 đợt tấn công của địch đã bị đẩy lùi.
Chiều ngày 18 tháng 2 năm 1979, chấp hành mệnh lệnh của cấp trên, Võ Đại Huệ chỉ huy đơn vị phá vòng vây dày đặc của địch, di chuyển đến vị trí mới, anh đã anh dũng hy sinh.
Ngày 19 tháng 12 năm 1979, liệt sĩ Võ Đại Huệ được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Liệt sĩ NGUYỄN VĂN HIỀN
Anh Nguyễn Văn Hiền sinh năm 1950, quê ở xã Thiệu Long, huyện Thiệu Yên, tỉnh Thanh Hóa. Nhập ngũ năm 1969. Khi hy sinh anh là thiếu úy, cán bộ Đồn 33, Công an nhân dân vũ trang tỉnh Lai Châu.
Sáng ngày 1 tháng 2 năm 1979, quân Trung Quốc xâm lược có xe tăng, pháo yểm trợ, ồ ạt tấn công Đồn biên phòng 33, Lai Châu, Nguyễn Văn Hiền chỉ huy một phân đội dũng cảm chặn đánh địch ở mũi chính diện. Dưới sự chỉ huy của anh, phân đội đã đẩy lùi 15 đợt tấn công hên tiếp của địch,
Địch tăng quân, ồ ạt tấn công. Nguyễn Văn Hiền chỉ huy đơn vị ngoan cường chiến đấu, đẩy lùi nhiều đợt tấn công của địch. Bị thương vào tay,anh tự băng bó, tiếp tục chỉ huy chiến đấu. Lần thứ ba, bị thương gãy cả hai chân, Nguyễn Văn Hiền vẫn không rời vi trí, tiếp tục động viên chiến sĩ phản kích địch quyết liệt. Địch dùng chiến thuật biển người ào lên hết đợt này đến đợt khác. Đạn sắp hết, anh lệnh cho 12 chiến sĩ phá vây, rút về tuyến sau, tiếp tục chiến đấu. Một mình ở lại ghìm chân địch và anh dũng hy sinh.
Ngày 19 tháng 12 năm 1979, liệt sĩ Nguyễn Văn Hiền được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Liệt sĩ QUÁCH VĂN RẠNG
Anh Quách Văn Rạng sinh năm 1956, dân tộc Mường, quê ở xã Thành Công, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa. Khi hy sinh anh là trung sĩ, trung đội phó, Đồn 125, Công an nhân dân vũ trang tỉnh Hoàng Liên Sơn.
Ngày 17 tháng 2 năm 1979, quân Trung Quốc xâm lược có xe tăng và pháo yểm trợ tấn công vào Đồn biên phòng 125 và khu vực thị xã Lào Cai. Quách Văn Rạng đã mưu trí, dũng cảm chỉ huy đơn vị đánh trả quyết liệt, bẻ gãy nhiều đợt tấn công của chúng, giữ vững trận địa đầu cầu (bên bờ sông Nậm Thi).
. Trong một trận chiến đấu, một chiến sĩ bị lạc, một chiến sĩ bị thương nặng. Quách Văn Rạng vừa cõng đồng đội vừa mang vũ khí gồm B40, AK và lựu đạn luồn lách trong rừng. Địch phát hiện, chúng xông đến quá đông. Anh đưa chiến sĩ bị thương vào chỗ khuất ẩn nấp, rồi nhạy ra, đánh lạc hướng địch. Anh bị địch bắt và đã giết hại ngay tại trận. Ở nơi ẩn nấp, người đồng đội bị thương đã chứng kiến hành động quả cảm của Quách Văn Rạng.
Ngày 19 tháng 12 năm 1979, liệt sĩ Quách Văn Rạng đã được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Liệt sĩ LÊ MINH TRƯỜNG
Anh Lê Minh Trường sinh năm 1960, dân tộc Kinh, quệ ở phố Sơn Tây, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Khi hy sinh đồng chí là binh nhất, chiến sĩ Đại đội 5, Công an nhân dân vũ trang tỉnh Lạng Sơn.
Sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979, bộ binh quân Trung Quốc xâm lược có pháo và xe tăng yểm trợ, ồ ạt tấn công vào hướng trận địa của Đại đội 5. Lê Minh Trường cùng đồng đội xông ra, chiếm lĩnh pháo đài Đồng Đăng, đánh trả địch quyết liệt. Lê Minh Trường đã góp phần tích cực cùng đơn vị bẻ gãy đợt tấn công ồ ạt của địch.
Sau khi củng cố đội hình, địch lại xông lên. Anh nhằm thẳng chiếc xe tăng đi đầu, bóp cò. Nhưng quả đạn B40 lần này không nổ. Lê Minh Trường đã cùng một lúc giật tất cả giây cháy chậm của vài quả lựu đạn rồi tung vào xích xe tăng làm cho xích xe địch hỏng. Địch trong xe l chui ra, anh dùng AK tiêu diệt. bộ binh địch xông lên anh cùng đồng đội bình tĩnh chiến đấu. Địch cho một bộ phận luồn sâu vào phía sau trận địa đánh tạt sườn hòng chia cắt đội hình của Đại đội 5. Không sợ nguy hiểm, Lê Minh Trường đã di chuyển linh hoạt, kịp thời chặn địch, góp phần tích cực cùng đồng đội giữ vững pháo đài Đồng Đăng cho đến lúc anh dũng hy sinh.
Ngày 19 tháng 12 năm 1979, liệt sĩ Lê Minh Trường được truy tặng dnh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
Liệt sỹ ĐỖ DUY PHÚ
Anh Đỗ Duy Phú sinh năm 1958, dân tộc Kinh, quê ở xã Minh Quân, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái, nhập ngũ tháng 5 năm 1978. Khi hy sinh anh là binh nhất, chiến sĩ trinh sát, đại đội 20, trung đoàn 124, sư đoàn 345, Quân khu 2.
Trong cuộc chiến đấu chống quân Trung Quốc xâm lược tháng 2 năm 1979, Đỗ Duy Phú đã nêu cao tinh thần dũng cảm, mưu trí, luôn bám sát địch
Ngày 28 tháng 2 năm 1979, đài quan sát của Đỗ Duy Phú bố trí trên điểm cao 598, 433 (huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai). bị địch nhiều lần đánh phá ác liệt hòng chiếm bằng được 2 điểm cao này. Anh cùng tổ vừa làm nhiệm vụ nắm địch, báo cáo kịp thời, chính xác cho pháo binh bần chính xác vào đội hình địch, vừa dùng súng bộ binh đánh địch. Đỗ Duy Phú bị thương lần thứ nhất vào vai, anh vẫn kiên quyết chiến đấu. Bị thương lần thứ 2, máu chảy ướt đầm áo, sau khi được băng bó, anh vẫn không rời trận địa, tiếp tục chiến đấu dùng lựu đạn, súng AK đánh vào đội hình địch. Anh đã anh dũng hy sinh sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Ngày 20 tháng 12 năm 1979, liệt sỹ Đỗ Duy Phú được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Liệt sỹ NGUYỄN VĂN NHÂM
Anh Nguyễn Văn Nhâm sinh năm 1946, dân tộc Kinh, quê ở xã Thạch Điền, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Khi hy sinh anh là trung uý, đại đội trưởng đại đội 3, tiểu đoàn 2, bộ đội địa phương huyện Sình Hồ, Lai Châu.
Ngày 17 tháng 2 năm 1979,quân Trung Quốc xâm lược có pháo yểm trợ đánh phá ác liệt và mở nhiều đợt tấn công hòng chiếm điểm cao 1262 (Sình Hồ, Lai Châu). Nguyễn Văn Nhâm chỉ huy đơn vị đánh địch quyết liệt ở phía trước, đồng thời tổ chức lực lượng xuất kích đánh vào sườn, giành giật từng công sự, hầm hào
Ngày 20 tháng 12 năm 1979, liệt sỹ Nguyễn Văn Nhâm được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Liệt sỹ TRẦN XUÂN VỊNH
Anh Trần Xuân Vịnh sinh năm 1957, dân tộc Kinh, quê ở xã Đức Lập, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Khi hy sinh anh là chuẩn uý, trung đội trưởng, đại đội 10, tiểu đoàn 3, trung đoàn 193 bộ đội địa phương tỉnh Lai Châu.
Trong cuộc chiến đấu tháng 2 năm 1979 chống quân Trung Quốc xâm lược Trần Xuân Vịnh đã nêu cao tinh thần chiến đấu, chỉ huy trung đội mưu trí, linh hoạt, kiên quyết đánh trả địch, giữ vững trận địa. Ngày 28 tháng 2 năm 1979, địch có pháo binh yểm trợ tấn công vào trận địa chốt của trung đội, anh đi sát động viên đơn vị bám giữ từng đoạn giao thông hào, đánh bất nhiều đợt tấn công của địch. Đến chiều, đơn vị hết đạn, Trần Xuân Vịnh dẫn đầu đơn vị dũng cảm dùng lưỡi lê, báng súng diệt địchvà đã anh dũng hy sinh .
Ngày 20 tháng 12 năm 1979, liệt sỹ Trần Xuân Vịnh được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Liệt sỹ ĐẶNG VĂN KHOAN
Anh Đặng Văn Khoan sinh năm 1957, dân tộc Kinh, quê ở xã Đông Trà, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Khi hy sinh anh là chiến sĩ công an huyện Bát Xát, tỉnh Hoàng Liên Sơn.
Ngày 17 tháng 2 năm 1979, quân Trung Quốc xâm lược ồ ạt đưa quân đánh chiếm địa bàn do anh phụ trách, anh đã dũng cảm chiến đấu góp phần chặn đứng nhiều đợt tấn công của địch. Trước tình thế hiểm nghèo, mặc dù bị thương nặng ở ngực, nhưng khi tính mạng đồng bào bị đe doạ, Đặng Văn Khoan đã dũng cảm bật nắp hầm bí mật tiêu diệt địch và đã anh dũng hy sinh.
Ngày 13 tháng 8 năm 1980, liệt sỹ Đặng Văn Khoan được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Liệt sỹ HÒANG VĂN TRAI
Anh Hoàng Văn Trai sinh năm 1959, dân tộc Nùng, quê ở xã Thụy Hùng, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Khi hy sinh anh là tiểu đội trưởng, tiểu đoàn cảnh sát bảo vệ cơ động, công an Lạng Sơn.
Sáng 17 tháng 2 năm 1979, khi quân Trung Quốc xâm lược tiến công vào khu vực Đồng Đăng, anh đã nhanh chóng chỉ huy tiểu đội bố trí đưa dân đi sơ tán. Ngày 18 tháng 2 năm 1979, Hoàng Văn Trai đã cùng đồng đội bám chốt đánh lui hàng chục đợt tiến công của địch. Khi bị thương ở chân, anh vẫn bám trụ tiếp tục chiến đấu. Do vết thương quá nặng, anh đã hy sinh ngay tại chiến hào.
Ngày 13 tháng 8 năm 1980, liệt sỹ Hoàng Văn Trai được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Liệt sỹ NGUYỄN BÁ LẠI
Anh Nguyễn Bá Lại sinh năm 1949, dân tộc Kinh, quê ở thôn Quảng Nạp, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Khi hy sinh là, trưởng phòng kỹ thuật, trung đội trưởng tự vệ đoàn địa chất 305, liên đoàn địa chất 3, tổng cục mỏ và địa chất.
Từ năm 1972 đến 1979, Nguyễn Bá Lại sống và làm việc ở đoàn địa chất 305 vùng biên giới. Ngày 17 tháng 2 năm 1979, quân Trung Quốc xâm lược cho pháo bắn dồn dập và dùng lực lượng lớn vượt 2 cầu phao bắc qua sông Hồng, chiếm các điểm cao và bao vây khu vực đoàn bộ đoàn địa chất 305. Trung đội Nguyễn Bá Lại chiến đấu ở hướng chính diện của địch tấn công từ Sulí Sin Quyền. Nguyễn Bá Lại đã diệt 7 tên, thu 1 súng AK. Trung đội của anh đã đánh lui 7 đợt tiến công của địch. Địch dùng cối bắn cấp tập rồi ồ ạt xông lên điểm chốt của đơn vị. Nguyễn Bá Lại nhảy lên khỏi hầm dùng AK bắn vào đội hình địch. Noi gương anh, nhiều anh em trong hầm cũng đứng lên chiến đấu. Bất ngờ 1 tên địch vào cách hầm 2m, trên tay cầm quả lựu đạn đang xì khói. Nguyễn Bá Lại nổ súng bắn nó ngã gục, quả lựu đạn văng vào trong hầm. Anh lập tức nằm đè lên quả lựu đạn, nhận sự hy sinh về mình để cứu sống 6 đồng đội trong hầm. Nguyễn Bá Lại đã cùng đơn vị bẻ gãy tất cả các đợt tiến công của địch, diệt nhiều tên, bảo vệ an toàn tài liệu địa chất và hơn 300 người dân.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét