Tác giả: Trương Hiểu Minh (Zhang Xiaoming/张晓明)
Dịch giả: Phan Văn Song
15-2-2016
Hình bên: Thị xã Lạng Sơn bị quân xâm lược Trung Quốc tàn phá. Nguồn ảnh:
Vietnamdefence
[Chương 3 trong cuốn Cuộc chiến lâu dài của Đặng Tiểu
Bình: xung đột quân sự giữa Trung Quốc và Việt Nam, 1979-1991 (Deng Xiaoping’s
Long War: The Military Conflict between China and Vietnam, 1979-1991. The
New Cold War History). The University of North Carolina
Press, 2015, pp. 67-89]
Ngày 9 tháng 12 năm 1978, hai Quân khu Quảng Châu và Côn
Minh nhận được lệnh triển khai quân đội ở biên giới Việt Nam truớc ngày 10
tháng 1 chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh “hạn chế về thời gian và
không gian” với “lực lượng áp đảo.”
Nhiều binh sĩ Trung Quốc đồ đoán rằng
Trung Quốc sẽ tấn công Việt Nam và không rõ họ sẽ đánh thắng hay không. Quân
đội Trung Quốc (PLA) chưa từng đánh một cuộc chiến tranh lớn nào trong gần ba
mươi năm. Vì vậy, không có sĩ quan nào từ cấp tiểu đoàn trở xuống có kinh
nghiệm chiến đấu. Hơn nữa, cách mạng văn hóa đã làm cho tinh thần và tiếng tăm
của PLA xuống mức thấp nhất từ truớc tới giờ. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc,
kể cả chính Đặng Tiểu Bình, đều không biết chắc về khả năng chiến đấu của
PLA. Trong mớ mơ hồ và không chắc chắn đó, Quân khu Quảng Châu và Côn Minh bắt
tay vào việc vạch kế hoạch chi tiết và chuẩn bị cho cuộc xâm lược của Việt
Nam.
[Chương này nghiên cứu việc PLA thực hiện các hoạt động xâm
lược ở cấp chiến dịch và chiến thuật trong bối cảnh lịch sử thời Chiến tranh Lạnh].
Trung Quốc chưa từng lập kế hoạch đánh VN, và quân đội Trung Quốc chưa bao
giờ chuẩn bị cho một hành động quân sự như vậy truớc đây. Lực luợng vũ
trang Trung Quốc quân số thiếu, trang bị kém và huấn luyện tồi. Khó khăn
nghiêm trọng nhất là sự thiếu nhiệt tình trong đội ngũ binh lính. Nhiều lính
không hiểu tại sao họ lại đi tấn công một nuớc có vẻ giống như – và thường
được so sánh với – nuớc “đàn em” của Trung Quốc.
PLA đã phát triển cách tiếp cận riêng về chiến tranh và
kiểu cách độc đáo riêng về thể chế. Phần lớn sự kế tục tìm thấy trong học
thuyết, chiến lược, và khái niệm hoạt động quân sự của PLA được dựa trên việc
tuân thủ các nguyên tắc của chủ nghĩa Mao, ngay cả khi đánh nhau với một kẻ
thù yếu như Việt Nam. Tư tưởng quân sự của Mao, “hệ thống công tác chính trị”
của PLA và việc huy động xã hội phục vụ các hành động quân sự đều đóng vai trò
quan trọng trong chỉ đạo lập kế hoạch và chuẩn bị cho cuộc xâm lược. Các đặc điểm
về thuật dùng binh của PLA trong các chiến dịch quân sự trong cuộc xâm lược
này cho thấy trước cả tính kế tục và những thay đổi trong nhiều năm tới.
Chuẩn bị cho cuộc chiến tranh chống Việt Nam là một công cuộc tầm cỡ quốc
gia phục vụ cho các mục tiêu chiến lược của lãnh đạo Trung Quốc.
Các di sản lí luận và thể chế của PLA
Năm 1979, các sĩ quan cấp cao của PLA vẫn là các tướng của
Mao, có kinh nghiệm chiến đấu trong chiến tranh chống Nhật, nội chiến
với Quốc Dân đảng, và chiến tranh Triều Tiên. Họ đã nằm lòng cách tiếp cận của
Mao đối với xung đột. Trong lập kế hoạch và chuẩn bị xâm lược Việt Nam, họ
theo đúng các nguyên tắc do lãnh tụ này đề ra hồi thập niên 1930 và 1940. Lệnh
của Quân Ủy Trung Ương (CMC) có chứa một số những nguyên tắc này như yêu
cầu hai Quân khu Quảng Châu và Côn Minh “tập trung lực lượng vượt trội”, dùng
chiến thuật “bao vây và thọc suờn”, và đánh một “trận đánh hủy diệt” quyết
định. Hiểu cách PLA áp dụng các di sản về lí luận và thể chế của Mao
trong giai đoạn lập kế hoạch và chuẩn bị cuộc xâm lược Việt Nam năm 1979 đòi hỏi
chúng ta phải xem xét chính di sản này.
Tư duy quân sự của Mao tập trung vào cách làm thế nào để một
lực lượng kém về vũ khí, trang bị lẫn huấn luyện lại có thể đánh bại một đối
thủ vượt trội. Thực chất của cách tiếp cận của ông là tạo ra một môi trường
chính trị để huy động cả nước và tập hợp sự ủng hộ trong nhân dân cho một cuộc
chiến tranh kéo dài. Một nguyên tắc cốt lõi về lí luận mà Mao vận dụng trong
cách tiếp cận chiến tranh của ông là “phòng thủ tích cực” (jiji fangyu/积极防御 – tích cực
phòng ngự) thông qua việc “kiên quyết đánh” bằng cách sử dụng ba nguyên tắc hoạt
động chủ động, linh hoạt, và có kế hoạch. Thứ nhất, ông tin rằng nắm
lấy và giữ đuợc thế chủ động là cốt yếu đối với một lực lượng yếu hơn
trong cuộc chiến bất cân xứng. Thứ hai, ông khẳng định rằng sự linh hoạt là
cốt yếu để đạt được sự chủ động hoạt động. Thứ ba, ông cho rằng việc lập kế
hoạch rõ ràng và có những thay đổi cần thiết sau này trong cuộc chiến sẽ giúp
vượt qua những nhầm lẫn, những chỗ tối tăm, và không chắc chắn riêng biệt của
cuộc chiến.
Mao tin rằng việc áp dụng những nguyên tắc này đòi hỏi phải
có các chỉ huy biết “sử dụng mọi phương pháp có được trong tiến hành trinh
sát” và “lọc lựa thông tin” bằng cách “loại cái râu ria, chọn cái cốt yếu;
bỏ cái giả, giữ cái thật” và sau đó “xử lí từ cái này đến cái khác và từ
ngoài vào trong.” Bằng cách xem xét cẩn thận các mối tương quan giữa các điều
kiện của quân đội của chính mình và của quân đội đối phương, một chỉ huy khôn
ngoan có thể “đạt tới kết luận, quyết định, và đề ra kế hoạch của mình.”
Vào cuối những năm 1940, khi lực lượng cộng sản đang phát
triển về quy mô và sức mạnh sau hơn mười năm chiến đấu chống lại thù trong giặc
ngoài, Mao xác định lại chiến lược quân sự và lí luận hoạt động của Trung Quốc,
rút ra bốn nguyên tắc bổ sung: (1) tiêu diệt sức mạnh thực tế của đối phương
(yousheng liliang/有生力量: hữu sinh lực lượng) chứ không phải là chiếm giữ một
thành phố hoặc một nơi; (2) Tập trung lực lượng vượt trội (jizhong youshi
bingli/集中优势兵力: tập
trung ưu thế binh lực) với các cuộc tấn công trực diện và bọc suờn đồng
thời tránh bị sa lầy vào một cuộc chiến tiêu hao; (3) tạo ra các chuẩn bị đảm
bảo chiến thắng trong bất kì tình huống nào; (4) chiến đấu anh dũng trong các
trận đánh liên tục mà không sợ hi sinh hay mệt mỏi. PLA đã sử dụng những
nguyên tắc quân sự này giành chiến thắng năm 1949 khi chống lại chế độ Quốc
dân đảng, và các nguyên tác này đã trở thành đặc điểm lâu bền về kiểu
cách chiến thuật và hoạt động của PLA.
Kể từ khi Hồng quân thành lập vào cuối những năm 1920, Mao
đã đặt nặng tầm quan trọng quyền kiểm soát tuyệt đối của ĐCSTQ đối với quân đội.
Ông cổ vũ việc lồng tổ chức đảng bên trong quân đội ở tất cả các cấp để đảm bảo
rằng quân đội sẽ theo đúng đường lối của ĐCSTQ. Ông đặc biệt nhấn mạnh tầm quan
trọng của vai trò của đảng ở cấp đại đội. Bởi vì quân đội của ông rất yếu và
đang gánh chịu vô vàn khó khăn, Mao tin rằng chỉ có một quân đội chính trị hoá
mới có thể giữ vững đạo đức và duy trì tinh thần đoàn kết trong binh
lính. ĐCSTQ phải đóng một vai trò tích cực và quyết định trong việc đưa
ra các quy tắc, quy định và quyết định cho quân đội. Binh lính phải hành động
theo lệnh của đảng thay vì lệnh của cá nhân nguời chỉ huy. Cách nghĩ này đã
dẫn đến việc tạo ra một kiểu thể chế đặc biệt trong lực lượng vũ trang do cộng
sản lãnh đạo (hệ thống công tác chính trị) để đảm bảo một trong những nguyên tắc
quan trọng khác của Mao cho quân đội: súng phải đặt dưới sự kiểm soát của đảng
chứ không phải của quân đội.
Các thành phần quan trọng nhất của hệ thống công tác chính
trị là hệ thống đảng uỷ và hệ thống chính uỷ.Đảng ủy được chỉ định
làm nhiệm vụ lãnh đạo, hướng dẫn và đoàn kết trong binh lính, truyền đạt chỉ
thị và mệnh lệnh tới các tổ chức đảng cấp dưới và đảm bảo rằng binh lính thực
hiện các lệnh đó. Dưới sự lãnh đạo của đảng uỷ, một cơ quan ra quyết định tập
thể được thành lập trong đó các chỉ huy quân sự và chính ủy cùng chia sẻ
trách nhiệm đối với công việc của đơn vị mình. Đảng uỷ thảo luận và đưa ra tất
cả các quyết định quan trọng, trừ trường hợp trong tình huống chiến thuật và cấp
bách.
Dưới sự lãnh đạo tập thể của đảng uỷ, một hệ thống chỉ huy
kép cho các chỉ huy quân sự và chính ủy cấp bậc ngang nhau. Chỉ huy quân sự chịu
trách nhiệm về tất cả các vấn đề quân sự, trong khi chính ủy thường là bí thư
đảng ủy, phụ trách việc đề bạt, an ninh, tuyên truyền, dịch vụ công cộng, và làm
công tác tư tưởng. Các nguyên tắc cơ bản của công tác chính trị (sự thống nhất
giữa sĩ quan và chiến sĩ, sự thống nhất giữa quân đội và nhân dân, và (do
đó) phân hoá lực lượng địch) làm thành cơ sở chính trị cho việc đoàn kết
binh lính và đánh bại kẻ thù. Từ kinh nghiệm có được từ thập niên 1920, lãnh
đạo ĐCSCS và quân đội Trung Quốc tin rằng hệ thống công tác chính trị đóng một
vai trò có ý nghĩa trong việc đảm bảo cho binh sĩ trung thành với ĐCSTQ và
trong việc trang bị cho binh lính đủ động lực cho việc nâng cao hiệu quả chiến
đấu.
Các lực lượng do ĐCSTQ lãnh đạo gồm ba thành phần cơ bản: lực
lượng chính quy, lực lượng địa phương, và dân quân tự vệ. Lực lượng chính quy
không bị giới hạn về địa bàn hoạt động, trong khi lực lượng địa phương và dân
quân bị giới hạn trong địa phương mình. Do đó, năm này qua năm khác, lực lượng
địa phương và dân quân hình thành hệ thống quan hệ xã hội sâu rộng trong địa
bàn mình và chuyển chúng thành những hiểu biết chi tiết về điều kiện địa
phương và do đó về cách tiến hành các hoạt động ở đó như thế nào.
Vào cuối năm 1948, sau khi có sự phát triển đáng kể lực lượng
cộng sản trong những năm cuối cùng của cuộc nội chiến. CMC tổ chức lại binh
lính thành bốn quân đoàn*. Vào lúc mà nước CHNDTH thành lập, quân đoàn 1 dưới
quyền nguyên soái Bành Đức Hoài và nguyên soái Hạ Long, đã thiết lập một sự hiện
diện mạnh mẽ ở vùng bắc và tây bắc Trung Quốc. Quân đoàn 2, dưới quyền nguyên
soái Lưu Bá Thừa và Đặng Tiểu Bình, thống trị vùng trung tâm và tây nam Trung
Quốc. Quân đoàn 3, dưới quyền nguyên soái Trần Nghị và đại tướng Túc Dụ, chiếm
đóng vùng đông Trung Quốc. Cuối cùng, quân đoàn 4, dưới quyền Lâm Bưu, phụ
trách vùng đông bắc đến nam Trung Quốc. Quân đoàn đã trở thành một tổ chức mà với
nó cá nhân binh lính được xác định. Sự trực thuộc cá nhân này cũng như thâm niên
công tác của binh lính trong một đơn vị cụ thể cũng đã đặt nền móng cho mối
quan hệ ‘anh cả-đàn em’ quý giá giữa quan chức cấp cao và thuộc hạ tin cậy và
cho việc nuôi dưỡng óc phe phái ít mong muốn trong chính sách về lãnh đạo. Những
di sản và đặc điểm có tính thể chế này, ăn sâu trong PLA cho tới năm 1979, đã ảnh
hưởng mạnh mẽ tới quyết định của Trung Quốc đi đến chiến tranh chống Việt Nam.
Vạch kế hoạch xâm lược
Gerald Segal cho rằng động cơ chính của Trung Quốc trong tấn
công Việt Nam là kiềm chế tham vọng và sự xâm lược của Việt Nam ở Đông Nam Á,
ngăn chặn mối đe dọa Việt Nam đối với an ninh quốc gia Trung Quốc và phơi bày
chỗ yếu của Liên Xô. Tuy nhiên, tính toán về chính trị tồi qua việc cố tạo ra một
chiến lược để trừng phạt Việt Nam, các nhà lãnh đạo của Trung Quốc đã thật sự đặt
mình trong một vị thế không thể thắng được— đó là, một vị thế trong đó Trung Quốc
không bao giờ có cơ hội thành công. Ý định Trung Quốc nêu công khai là “dạy cho
Việt Nam một bài học” đã tạo ra một ấn tượng sai lệch rằng mục đích chính của
cuộc chiến chỉ đơn giản là một “hành động trả thù”. Ấn tượng này là không thích
hợp vì cuộc tấn công hầu như không phải bất chợt hay chỉ đơn thuần để trả thù.
Ngay từ đầu, Bắc Kinh đã hạn chế nghiêm ngặt các mục tiêu, thời gian và phạm vi,
và tiến hành chiến tranh tránh vượt hơn một cuộc xung đột biên giới giữa hai nước.
Tuy nhiên, sau khi Việt Nam xâm lược Campuchia, CMC mở rộng mục tiêu gồm cà việc
xâm lược vùng Tây Bắc Việt Nam.
Dù thực tế hay không, mưu đồ này đã tiết lộ rằng rất nhiều
suy nghĩ đã dành cho việc thào ra kế hoạch cũng như cho thấy các nhà lãnh đạo
Trung Quốc đang quyết ăn thua đủ, có vẻ chẳng màn cái giá phải trả giá là gì.
Ngoài ra, kế hoạch này phản ánh tác dụng điều hòa của lãnh đạo ĐCSTQ đối với nỗi
căm giận sôi sục của PLA. Sĩ quan PLA muốn sử dụng vũ lực để đánh mạnh vào Việt
Nam, mà theo họ không khác gì hơn một cựu đồng minh phản bội phải bị trừng phạt.
Thay vì đưa cho quân đội một khuôn khổ không gò bó để thực hiện sự trừng phạt
mong muốn bên trong đó, các nhà lãnh đạo ĐCSTQ giới hạn hoạt động của quân đội
cả về thời gian lẫn không gian qua việc chỉ đạo các lãnh đạo quân sự tại Quảng
Châu và Côn Minh lập ra một chiến lược hoạt động có thể đáp ứng các mục tiêu
chiến lược của lãnh đạo ĐCSTQ. Các nhà hoạch định quân sự địa phương lo ngại về
mức độ mà theo đó mục tiêu về giảng dạy Việt Nam một bài học thực sự có thể đạt
được hoặc thậm chí được đo đếm được đến đâu.
Thoạt đầu, CMC yêu cầu Quân khu Quảng Châu cho hai đại đoàn*
(41 và 42) và một sư đoàn (129 thuộc đại đoàn 43) tấn công lực lượng Việt Nam ở
khu vực Cao Bằng, trong khi hai đại đoàn khác (43 và 55) sẽ tham gia trong các
cuộc tấn công nghi binh nhắm vào Đồng Đăng và Lộc Bình trước cuộc tấn công cuối
cùng vào Lạng Sơn. Quân khu Côn Minh được lệnh phải sử dụng hai đại đoàn (13 và
14) để tiêu diệt một sư đoàn Việt Nam tại Lào Cai cũng như các đơn vị địa
phương khác gần biên giới Vân Nam. CMC có vẻ cho các chỉ huy khu vực quyền tự
chủ hoạt động nhưng vẫn giữ quyền quyết định về thời gian và không gian của cuộc
chiến dưới sự chỉ huy của lãnh đạo trung ương ở Bắc Kinh. Đặng Tiểu Bình kiên
quyết né tránh tình trạng cuộc xâm lược xoay thành một vũng lầy cho Trung Quốc.
Theo tướng Chu Đức Lễ (Zhou Deli/周德礼) thì tướng Hứa
Thế Hữu (Xu Shiyou/许世友),
tư lệnh Quân khu Quảng Châu và là chiến binh cũ của PLA, đã nhận nhiệm vụ lập
kế hoạch ngày 9 tháng 12 năm 1978 và sau đó bắt đầu xem xét chiến lược quân sự
chống Việt Nam. Ông nghĩ ngay đến một cuộc tấn công bất ngờ áp đảo vào quân đội
Việt Nam, nắm thế chủ động và ngăn không cho Việt Nam khôi phục sức mạnh. Dựa
trên kinh nghiệm chiến đấu của mình, Hứa Thế Hữu đề xuất kế hoạch được biết như
là niudao shaji (牛刀杀鸡 [ngưu đao sát kê]: dùng dao mổ trâu giết gà), một mô tả gợi
hình về bạo lực khổng lồ. Là một học trò của Mao về cách tiếp cận chiến tranh,
Hữu tin rằng cách tiếp cận này áp dụng thích đáng học thuyết của Mao về tiến
hành cuộc chiến tranh hủy diệt. Có ba thành phần: (1) tập trung đánh vào các bộ
phận phòng thủ trọng yếu của địch nhưng không vào điểm mạnh của địch, (2) sử dụng
lực lượng và hỏa lực áp đảo để đè bẹp sự phòng vệ của địch vào thời điểm mở trận
và (3) đánh nhanh và sâu vào tim của địch. Bằng cách này, Hữu dự kiến rằng PLA
sẽ cắt hàng phòng thủ của đối phương ra manh mún và sau đó tiêu diệt các lực lượng
đã nhắm trước từng mảng một.
Ngày 11 tháng 12 năm 1979, Hữu triệu tập cuộc họp chiến
tranh đầu tiên. Những người tham gia bao gồm các phó tư lệnh, phó chính trị ủy,
tham mưu trưởng, giám đốc chính trị, giám đốc hậu cần, và các chỉ huy và chính ủy
của đại đoàn 41, 42 và 55 thuộc Quân khu Quảng Châu. Tại cuộc họp, các đại đoàn
41 và 42 được chỉ định thực hiện một cuộc tấn công theo hai hướng vào Cao
Bằng, trong khi đại đoàn 55 sẽ phát động các cuộc tấn công vào Lạng Sơn. Do
Quân khu Quảng Châu không có đủ quân, CMC chuyển đại đoàn 43 từ Quân khu Vũ Hán
thành quân dự bị của Hữu.
Sau khi tướng Lễ công bố nhiệm vụ, các đại biểu nêu ra nhiều
câu hỏi vì binh sĩ của họ chưa từng tham gia vào các hoạt động lớn như vậy
trong nhiều năm. Vấn đề chính là làm sao để vận chuyển binh lính— đặc biệt là
hai đại đoàn và hai sư đoàn pháo binh ở khu vực Quảng Đông— từ doanh trại tới
biên giới ở Quảng Tây vào cuối tháng 12. Rất ít người có kiến thức và kinh nghiệm
sắp xếp một cuộc di chuyển quân đội có quy mô lớn như thế, đặc biệt là trong điều
kiện phương tiện giao thông vận tải hạn chế. Một vấn đề bức xúc là tất cả các
đơn vị tham gia vào cuộc xâm lược đều thiếu quân số và thiếu trang bị. Những
người tham dự tại cuộc họp đồng ý rằng sẽ không để lại quá 5 % quân số ở phía
sau và yêu cầu tất cả binh sĩ chuẩn bị để chiến đấu với trang bị có trong tay.
Cuối cuộc họp, Hữu kêu gọi các sĩ quan cao cấp làm gương bằng cách thay đổi
thói quen làm việc từ chế độ thời bình sang thời chiến— phải hành động nhanh
chóng và đúng giờ và làm việc cật lực. Ông nói rõ rằng ông sẽ trừng phạt những
ai không hoàn thành công việc của mình. Sau đó, Hũu yêu cầu các đại biểu đi tới
binh sĩ và giúp họ chuẩn bị cho cuộc xâm lược.
Hữu đã từng là tư lệnh Quân khu Nam Kinh (quân đoàn 3) 18
năm trước khi nắm quyền chỉ huy Quân khu Quảng Châu vào năm 1973, khi Mao Trạch
Đông ngày càng trở nên lo lắng về sự trung thành của các chỉ huy quân sự trong
quân khu của ông. Do Hữu được bàn giao lại hầu hết các cấp phó và binh lính thuộc
quân đoàn 4, nhiều người trong số họ không thấy thoải mái với phong cách lãnh đạo
của ông. Sau cuộc họp, tham mưu trưởng Chu Đức Lễ cảm thấy cần phải tổ chức họp
những người đứng đầu bộ phận của mình để thảo luận chi tiết về việc làm thế nào
để triển khai quân tới khu vực biên giới. Vì lí do an ninh, Hữu yêu cầu tham
mưu trưởng của ông thảo luận về phân công và mục tiêu nhiệm vụ với từng bộ phận
một cách riêng biệt.
Đặng Tiểu Bình dường như không tin cậy ban lãnh đạo Quân khu
Quảng Châu, vì lúc đó việc thanh lọc những người ủng hộ bè lũ bốn tên đang được
tiến hành. Hầu hết các cán bộ cao cấp đều là thuộc cấp của nguyên soái Lâm Bưu
vốn bị cáo buộc đảo chính Mao bất thành và sau đó chết trong một tai nạn máy
bay tháng 9 năm 1971 ở sa mạc Mông Cổ, Lâm Bưu sau đó bị kết án phản quốc và bị
gán là kẻ chủ mưu một loạt các cuộc thanh trừng chính trị đối với nhiều lãnh đạo
ĐCSTQ và PLA— trong đó có Đặng— trong cuộc Cách mạng Văn hóa. Đầu tháng 12, một
trong những thuộc hạ lâu năm của Đặng Tiểu Bình thuộc quân đoàn 2, Lưu Xương
Nghĩa (Liu Changyi/刘昌义), được bổ nhiệm làm cấp phó của Hữu để chỉ huy cuộc chiến, mặc
dù ông đã có 5 phó tư lệnh rồi. Tuy nhiên, việc bổ nhiệm này không làm cho Hữu
cảm thấy khó chịu, vì đã từng quen biết Nghĩa từ ngày họ ở trong Hồng quân. Tuy
nhiên, việc thiếu các quan hệ cá nhân giữa binh lính và chỉ huy sẽ dẫn đến những
than phiền về phong cách lãnh đạo của Hữu khi các hoạt động không theo đúng dự
kiến.
Ngày 21 tháng 12, Quân khu Quảng Châu thành lập bộ chỉ huy
tiền phương trong một hầm kho của không quân gần Nam Ninh, thủ phủ của khu tự trị
Quảng Tây, vì các cuộc tấn công sẽ được phát ra từ ba hướng từ phía Quảng Tây.
Bộ chỉ huy gồm bảy nhóm chức năng: tổng hành dinh (Nhóm 1), ban chính trị (nhóm
2), ban hậu cần (Nhóm 3), pháo binh (nhóm 4), công binh (nhóm 5), không quân
(Nhóm 6), và hải quân (Nhóm 7). Sĩ quan được chia thành ba nhóm, mỗi nhóm trợ
giúp các hoạt động của một hướng tấn công. Trong hồi kí của mình, tướng Lễ cho
rằng cấu trúc chỉ huy này là hiệu quả cho việc chỉ đạo một nhóm quân, như vậy
tránh được sự hỗn loạn trong suốt chiến dịch.
Ngày 5 tháng 1 năm 1979, các thành viên của bộ chỉ huy tiền
phương Quảng Châu đã tổ chức cuộc họp chiến tranh thứ hai ở Nam Ninh. Ngoài những
người tham dự cuộc họp lần đầu, tham dự bây giờ có thêm sĩ quan cao cấp của
không quân và hải quân cũng như các nhà lãnh đạo ĐCS địa phương. Sau khi xem
xét kế hoạch hoạt động sơ bộ, các đại biểu đề nghị một số thay đổi. Kế hoạch cuối
cùng chia chiến dịch thành hai giai đoạn: đầu tiên, hai đại đoàn sẽ được sử dụng
để tiến hành các cuộc tấn công vào Cao Bằng, và sau đó một đại đoàn đoàn sẽ chiếm
lấy Lạng Sơn. Kế hoạch cũng đòi hỏi có hai sư đoàn tung vào hậu phương của địch,
để bao vây Cao Bằng từ phía tây và phía nam. Tổng tham mưu PLA chấp nhận kế hoạch,
khuyến nghị huấn luyện bổ sung, và chỉ thị cho các đơn vị được giao nhiệm vụ
thâm nhập sâu càng mang nhiều đạn càng tốt, thậm chí bằng cách giảm bớt các thứ
dự phòng khác còn không quá ba ngày. Ngày 5 tháng 2, những người tham dự cuộc họp
thứ ba đề nghị rằng phải đồng thời mở các cuộc tấn công vào Đồng Đăng, cửa ngõ
đi Lạng Sơn, một khi trận đánh chiếm Cao Bằng bắt đầu. Hữu chấp thuận sửa đổi
cuối cùng này. Do PLA chỉ có kiến thức hạn chế về quân đội và điều kiện tự
nhiên xã hội địa phương của Việt Nam, Chu Đức Lễ sau đó nhận ra rằng kế hoạch
đã có kẽ hở ngay từ đầu. Nếu không thì chiến dịch quân sự tiếp theo sẽ bảo đảm
nhiều chiến thắng hơn.
Không có hồi ức cá nhân tương tự như của Chu Đức Lễ cho biết
các thông tin về cách Quân khu Côn Minh chuẩn bị cho hành động của họ. Hiên nay
chúng ta mới biết rằng có một sự thay đổi về lãnh đạo xảy ra trên mặt trận Vân
Nam, và kế hoạch tấn công Điện Biên Phủ đã bị hủy bỏ. Ngày 7 tháng 1 năm 1979,
Dương Đắc Chí (Yang Dezhi/杨得志) thay thế Vương Tất Thành (Wang Bicheng/王必成), vốn
cũng từ quân đoàn 3 nhưng không có quan hệ tốt với chỉ huy tại Quảng Tây. Tuy
nhiên, bốn ngày sau khi quân đội Trung Quốc từ Vân Nam xâm lược Việt Nam, Chí
được đưa nhanh đến bệnh viện ở Bắc Kinh với bệnh chảy máu dạ dày nghiêm trọng.
Như vậy, chiến dịch được Vương Tất Thành vạch kế hoạch lúc ban đầu nhưng lại do
hai cấp phó của Chí thực hiện với sự trợ giúp của một đội ngũ sĩ quan của Bộ Tổng
tham mưu PLA. Tuy nhiên, sẽ gây hiểu nhầm khi khẳng định rằng chọn Chí làm lãnh
đạo quân sự tốt hơn chọn Hữu.
Từ ngày 8 tới ngày 10 tháng 1, Quân khu Côn Minh đã tổ chức
các cuộc họp lập kế hoạch cho cuộc xâm lược. Các đại đoàn 13 và 14 sẽ tấn công
một sư đoàn chính quy Việt Nam tại khu vực Lào Cai và Cam Đường và sau đó tìm
cách tấn công một sư đoàn Việt Nam ở khu vực Sa Pa. Đại đoàn 11 sẽ tiến hành hoạt
động độc lập ở khu vực Phong Thổ. Một bộ chỉ huy tiền phương đã được thiết lập
tại Khai Nguyên (Kaiyuan), một thị trấn quê giữa Côn Minh và thị trấn biên giới
Hà Khẩu. Các hoạt động liên quan tới tổng cộng ba đại đoàn, cùng với các đơn vị
pháo binh, xe tăng, công binh, và các đơn vị độc lập (150 000 quân). Một bộ
chỉ huy phía tây được lập ra để chỉ đạo đại đoàn 50 và 54 khi họ tiến hành hoạt
động thọc sườn tây bắc Việt Nam. Tuy nhiên, sau khi các lực lượng vũ trang Việt
Nam chiếm đóng hầu hết Campuchia vào giữa tháng 1, các lãnh đạo ĐCSTQ hủy bỏ
chiến dịch này và tái triển khai hai đại đoàn này (ngoại trừ một sư đoàn thuộc
đại đoàn 50) tới mặt trận Quảng Tây làm quân dự bị. Không có nguồn nào nói về sự
phối hợp giữa hai quân khu: họ đã tiến hành các cuộc tấn công một cách độc lập.
Triển khai và chuẩn bị
Giữa tháng 12 năm 1978, các đại đoàn của Quân khu Quảng Châu
và Côn Minh bắt đầu triển khai tới vị trí dọc theo biên giới với Việt Nam. Quân
lính chuyển tới bằng đường bộ, trong khi thiết bị nặng và nguồn tiếp tế đến bằng
đường sắt. Các đơn vị công binh xây dựng 3 cầu phao trên hai con sông chính ở
Quảng Đông. Tổng cộng có hơn 168 100 quân cùng với 7 087 tấn nguyên liệu
được vận chuyển từ Quảng Đông đến mặt trận. Bốn đại đoàn từ quân khu khác đi xe
lửa tới các điểm đến ở Quảng Tây và Vân Nam. Đại đoàn 13— có tổng cộng
35 000 quân, cùng với 873 khẩu pháo, 1 950 xe, và trang thiết bị
khác— đi 1. 00 km từ Trùng Khánh, tỉnh Tứ Xuyên, bằng 90 chuyến xe lửa.
Mặc dù PLQ di chuyển vào ban đêm, giao thông đường sắt và đường
bộ nặng tãi như thế đã phá vỡ lịch trình xe lửa bình thường và khơi gợi sự tò
mò của nhiều người qua đường và khách du lịch. Tất cả các xe đều sử dụng biển số
tỉnh Quảng Tây để che giấu nguồn gốc, và quân lính tắt sóng vô tuyến trong thời
gian triển khai quân. Các hậu cứ vận hành các máy phát sóng của họ theo lịch
thường xuyên để đánh lừa tình báo Việt Nam và các nước khác. Đến cuối tháng, tất
cả các đại đoàn của Quân khu Quảng Châu, trong đó có đại đoàn 43 từ Lạc Dương,
tỉnh Hà Nam, thuộc quân khu Vũ Hán, đã vào vị trí của họ gần biên giới. Chu Đức
Lễ sau này nhớ lại rằng các hoạt động chuyển quân đã được hoàn thành đúng tiến
độ. Chỉ có một tai nạn xảy ra, làm một khẩu pháo bị hư hỏng và hai binh sĩ bị
thương.
Theo tướng Lễ, lực lượng không quân và hải quân cũng đã triển
khai quân cùng một lúc. Mười ba trung đoàn không quân cộng thêm 6 nhóm bay,
cùng với các đơn vị phục dịch, đơn vị pháo phòng không (AAA) và tên lửa đất-đối-không
(SAM), đã được đưa đến các sân bay ở Quảng Tây, gần biên giới. Hệ thống chỉ huy
và kiểm soát không quân ở hai tỉnh này chưa đáp ứng được yêu cầu. Mặc dù chỉ
huy thống nhất là trọng yếu để hoạt động quân sự có hiệu quả trong chiến lược
quân sự, hai bộ chỉ huy không quân tiền phương lại được lập ra theo hệ thống
quân khu hiện có: tư lệnh không quân quân khu Vương Hải (Wang Hai/王海) được
giao phụ trách ở Quảng Tây, và Hầu Thư Quân (Hou Shujun/侯书), giám đốc bộ chỉ huy không quân
quân khu Côn Minh nắm quyền chỉ huy ở Vân Nam.
Để tránh leo thang xung đột, lãnh đạo ĐCSTQ giới hạn việc sử
dụng không lực trong lãnh thổ Trung Quốc, ra lệnh cho các đơn vị không quân sẵn
sàng yểm trợ cho các hoạt động trên bộ của PLA “nếu cần.” Tuy nhiên, lãnh đạo
không đưa ra định nghĩa rõ ràng về tình thế “cần thiết” là gì hay nó có thể xảy
ra khi nào; thay vào đó, các lãnh đạo bắt buộc rằng bất kì hoạt động nào ngoài
không phận của Trung Quốc phải được CMC cho phép. Dựa trên nguyên tắc này,
Không quân PLA (PLAAF) đề ra một chiến lược yêu cầu các đơn vị của mình sẵn
sàng cung ứng cả phòng không lẫn yểm trợ mặt đất bất cứ lúc nào và thực hiện
càng nhiều phi vụ càng tốt trên vùng trời biên giới để ngăn chặn lực lượng
không quân Việt có hành động chống lại Trung Quốc. Các đội điều hành không quân
đã được phái đến các bộ chỉ huy tiền phương của cả hai quân khu, và các nhóm hướng
dẫn mục tiêu đã được gắn vào ban chỉ huy đại đoàn và sư đoàn trên bộ.
Hải quân Trung Quốc (PLAN) đã triển khai một tổ công tác, có
phiên hiệu là đội hình 217, gồm hai tàu khu trục tên lửa, một nhóm tàu tên lửa,
một nhóm tàu phóng ngư lôi, và một nhóm tàu săn đuổi, đến quần đảo Hoàng Sa và
các cảng ở Quảng Tây để chuẩn bị tấn công Hải quân Việt Nam trong Vịnh Bắc Bộ.
Các đơn vị không quân của hải quân trên đảo Hải Nam đã được chỉ định canh chừng
các hoạt động của hải quân Liên Xô ở Biển Đông. Trong trường hợp phải chiến đấu
chống lại các tàu tuần dương của Liên Xô, PLAN đã thông qua một chiến lược
phòng thủ sử dụng các đảo và bờ biển để che dấu tàu mang tên lửa, cho phép
chúng phóng ra các cuộc tấn công bất ngờ từ vị trí ẩn nấp.
Do không có đụng độ trên biển thực sự xảy ra trong suốt cuộc
xâm lược, rất khó để xác định xem chiến lược chống tàu Liên Xô này có kết quả
hay không. Tuy nhiên, các báo cáo sau khi hành động của Tổng cục Chính trị Hạm
đội Nam Hải đã thừa nhận rằng kĩ năng trên biển là không chuyên nghiệp vào thời
điểm đó và chỉ có 20% quả đạn do các đội súng bắn ra là trúng mục tiêu khi huấn
luyện. Một sự cố khác cũng cho thấy phối hợp của các tàu trong đội tàu rất tệ hại.
Theo báo cáo, trong một cuộc tập trận, có một tín hiệu viên phát tín hiệu sai
làm toàn bộ đội hình bị rối loạn.
Ban lãnh đạo quân khu ngày càng quan ngại về bí mật hành
quân, đặc biệt là vấn đề rò rỉ thông tin việc chuyển quân về phía khu vực biên
giới Quảng Tây. Tướng Hữu cảm thấy khó chịu khi biết rằng việc ông có mặt ở thủ
phủ tỉnh Quảng Tây vốn phải giữ bí mật lại bị các nhà báo nước ngoài loan tin.
Ông còn thấy đáng báo động hơn nữa khi biết rằng các tuyến đường sắt giữa Trung
Quốc và Việt Nam vẫn hoạt động theo lịch trình bình thường, và giao thương
xuyên biên giới giữa hai bên vẫn tiếp tục. Trong cả hai trường hợp này, tình
báo Việt Nam có thể thu được thông tin về việc chuyển quân của Trung Quốc ở khu
vực biên giới. Hữu yêu cầu chính quyền Quảng Tây lập tức dừng ngay tất cả các
hoạt động thương mại biên giới và đóng cửa biên giới. Ông cũng yêu cầu Bắc Kinh
đóng hoạt động đường sắt giữa hai nước và trục xuất các nhân viên đường sắt Việt
Nam khỏi thị trấn biên giới Bằng Tường. Bắc Kinh chấp thuận yêu cầu này. Vào
ngày 26 tháng 12 biên giới Quảng Tây-Việt Nam đã đóng cửa khi quân lính bắt đầu
đến khu vực tập kết gần đó. Dù loạt sáng kiến này chắc chắn giải quyết vấn đề
trước mắt của ông, nhưng những hành động đó tự nó cũng đã làm chính quyền Việt
Nam cảnh giác với hiện tình hành động quân sự của Quảng Tây.
Lực lượng PLA đã không tham gia vào các hành động quân sự quy
mô lớn như vậy trong hơn hai thập ê. Bộ chỉ huy tiền phương Quân khu Quảng Châu
ban hành một chỉ thị chi tiết yêu cầu binh lính phải thật chú ý đến 5 vấn đề
khi họ chuẩn bị cho cuộc xâm lược. Thứ nhất, tất cả các binh sĩ cần phải làm
các công trình phòng thủ và ngụy trang xe cộ, khí tài đề phòng khả năng bị Việt
Nam tấn công bất ngờ từ trên không và trên bộ. Thứ hai, chỉ huy các cấp cần phải
tự làm quen với kẻ thù và với điều kiện địa lí ở miền bắc Việt Nam dọc theo
biên giới Trung Quốc và bắt đầu thu thập thông tin về mục tiêu cho pháo binh.
Thứ ba, tất cả các lực lượng cần phải tăng sức mạnh tối đa của các đơn vị mình
và duy trì vũ khí và trang bị trong tình trạng tốt. Thứ tư, tất cả các đơn vị cần
phải thực hành bảo mật thông tin tốt, đặc biệt là các lệnh phân công phải đưa
ra trực tiếp thay vì qua điện thoại hay vô tuyến. Cuối cùng, tất cả các đơn vị
cần phải huấn luyện lính mới ném lựu đạn và bắn súng máy và lập kế hoạch hoàn
thành nhiệm vụ chiến đấu của họ.
Chỉ thị này phản ánh một số vấn đề nhức nhối mà PLA phải đối
đầu ngay trước ngày xâm lược. Nghiêm trọng nhất, các lực lượng của họ còn xa mới
sẵn sàng cho chiến dịch; thật sự là họ vẫn chưa hoàn toàn có đủ quân số và
trang bị. Trong nhiều năm qua, lực lượng bộ binh của PLA đã duy trì một cơ cấu
tổ chức theo thời bình: trong mỗi đại đoàn, chỉ có một sư đoàn loại A (jia
zhong shi /甲种师 [giáp chủng sư]
hoặc quan zhuang shi /全装师[toàn trang sư]) – được giữ đầy đủ biên chế, trong khi có hai
sư đoàn loại B (yi zhong shi /乙种师 [ất chủng sư] hay jian bian shi /简编师 [giản biên
sư]) – đều dưới mức biên chế. Chính quyền địa phương đã tiến hành làm hai bản dự
thảo thời chiến. Với sự thiếu hụt lính cũ, bản dự thảo thứ hai đặc biệt gọi nhập
ngũ các dân quân đã được huấn luyện tốt và các cựu binh. Chỉ riêng ở tỉnh Quảng
Đông, gần 400 000 thanh niên đã đáp ứng lệnh gọi. Tổng cộng có 15 000
tân binh đã được dự kiến và 1 512 binh sĩ xuất ngũ đã được huy động lại.
PLA cũng nhanh chóng đề bạt cán bộ để lấp chỗ trống lãnh đạo ở mọi cấp. Cán bộ
chuyên ngành từ quân khu khác cũng đã được chuyển giao các công việc kĩ thuật về
pháo binh, công binh, thông tin liên lạc, xe tăng, và các đơn vị chống chiến
tranh hóa học.
Đại đoàn 42 đã thăng cấp 11 sĩ quan lên thành cán bộ chỉ huy
cấp sư đoàn và 82 sĩ quan lên cấp trung đoàn, trong khi đại đoàn 55 tiến cử 15
cá nhân thành lãnh đạo sư đoàn và 76 làm lãnh đạo trung đoàn. Để lắp đầy vị trí
lãnh đạo ở cấp trung đội, đại đoàn 42 phong 1 045 người thành sĩ quan vào
đêm trước của cuộc xâm lược. Đại đoàn 13 nhận được 15 381 tân binh, trong
đó 11 874 là lính nghĩa vụ mới. Những số liệu thống kê này cho thấy các vấn
đề về huấn luyện mà PLA phải đối mặt khi chuẩn bị cho chiến tranh.
____
*Do quân đội VN nhỏ không có những đơn vị quá lớn nên để bạn
đọc dễ hình dung hơn xin tạm dịch
-‘army’: một đơn vị trên cấp sư đoàn, thành ‘đại đoàn’ (‘đại
đoàn’ có thể cùng nghĩa với ‘sư đoàn’ nhưng ít dùng, còn TQ gọi là ‘tập đoàn
quân’)
– ‘field army’, một đơn vị trên cấp đại đoàn, thành ‘quân
đoàn’ (TQ gọi là ‘phương diện quân’)
(Đọc tiếp PHẦN 2)
@Ba Sàm
Trí Nhân Media
(Đọc tiếp PHẦN 2)
@Ba Sàm
Trí Nhân Media
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét