12-6-2014
* tựa bài chính " THOÁT TRUNG, NHƯNG COI CHỪNG MỘT SAI LẦM BI ĐÁT !"
Một tháng rưỡi đã trôi
qua kể từ ngày Bắc Kinh đưa giàn khoan vào vùng biển thuộc đặc quyền kinh tế của
Việt Nam. Giàn khoan vẫn còn đó những dư luận thế giới đã ngoảnh sang những vấn
đề khác. Bắc Kinh đã thành công một bước trong tiến trình bình thường hóa sự
chiếm đoạt các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và vùng biển thuộc đặc quyền kinh
tế của Việt Nam. Bước tiến này mở đường cho những hành động lấn chiếm khác.
Hành động của Bắc Kinh
đáng lẽ là một sự dại dột và đã phải thất bại bẽ bàng; không những thế còn tạo
cho Việt Nam một cơ hội để tái khẳng định chủ quyền trên Hoàng Sa, Trường Sa và
các quyền lợi chính đáng trên Biển Đông theo qui định của luật pháp quốc tế.
Trong những ngày đầu khi Trung Quốc vừa đưa giàn khoan HD-981 vào hải phận Việt
Nam lập trường của các chính phủ -Hoa Kỳ, Châu Âu cũng như các nước trong khu vực
Thái Bình Dương- đã đồng thanh lên án hành động của Trung Quốc như là một sự
khiêu khích. Ngược lại không một quốc gia nào bênh vực Trung Quốc cả. Một cách
mặc nhiên thế giới đã nhìn nhận Hoàng Sa và vùng biển chung quanh không phải là
của Trung Quốc, nghĩa là của Việt Nam hay ít nhất có thể được coi là của Việt
Nam.
Điều gì sẽ xảy ra nếu Việt
Nam phản ứng một cách mạnh mẽ, dù ôn hòa, đối với Trung Quốc và đưa vấn đề ra
trước Liên Hiệp Quốc? Chắc chắn Trung Quốc sẽ xấc xược phủ nhận thẩm quyền của
Tòa Án Công Pháp Quốc Tế (International Court of Justice) và cũng sẽ sử dụng
quyền phủ quyết nếu Việt Nam đưa vấn đề ra Hội Đồng Bảo An. Nhưng đó là tất cả
những gì mà chúng ta chờ đợi. Trung Quốc sẽ bị cô lập và lên án, chủ quyền của
Việt Nam sẽ được thừa về mặt tình cảm, Trung Quốc sẽ phải trả giá đắt hơn nhiều
nếu tái diễn sự khiêu khích. Có mọi triển vọng là họ không dám tái diễn vì
Trung Quốc vừa rất lệ thuộc vào thế giới vừa không đủ mạnh để thách thức thế giới,
hơn nữa lại đang sắp đi vào một cuộc khủng hoảng lớn. Tóm lại giàn khoan của
Trung Quốc sẽ rút đi sau một vài tháng chi phí tốn kém, sau khi bị lên án và
khiến Việt Nam được bênh vực.
Nhưng thực tế đã không
như vậy bởi vì chính quyền cộng sản Việt Nam đã không có phản ứng. Hành động
xâm lược của Trung Quốc vẫn tiếp tục và không còn lôi kéo sự chú ý của thế giới
nữa. Lần sau nếu tình trạng này lặp lại sự chú ý của thế giới sẽ còn ít hơn. Lẽ
phải lúc đó sẽ chỉ là lý của kẻ mạnh.
Những gì chính quyền CSVN
đã làm, như phổ biến một thư luân lưu tới các thành viên LHQ một tháng sau khi
sư kiện khởi đầu, một vài tuyên bố nguyên tắc và một số tàu cá và cảnh sát biển
tới gần hiện trường, không đáng được coi là một phản ứng. Ngay cả nếu chính quyền
CSVN muốn dâng biển và đảo cho Trung Quốc trong một thỏa hiệp ngầm họ cũng khó
có thể phản ứng yếu hơn.
Hành động của Trung Quốc
vừa là một hành động lấn chiếm vừa là một hành động chiến tranh bởi vì họ đem
theo cả hàng trăm tàu chiến và đánh phá các tàu của Việt Nam, kể cả tàu của cảnh
sát biển Việt Nam. Trước một biến cố nghiêm trọng như vậy bất cứ một chính quyền
nào trên thế giới cũng đã phải thông tin và giải thích đầy đủ cho nhân dân biết
những gì xảy ra qua thông điệp long trọng của quốc trưởng và thủ tướng cùng với
những phát biểu của các bộ trưởng và các cấp lãnh đạo chính trị để động viên
toàn dân đoàn kết trong cố gắng giữ nước, đồng thời lập tức đưa vấn đề ra công
pháp quốc tế.
Nhưng chúng ta đã thấy
gì?
Ông tổng bí thư Nguyễn
Phú Trọng hoàn toàn không nói gì trước hội nghị trung ương của đảng cộng sản diễn
ra đúng lúc Trung Quốc đang trắng trợn xâm phạm vùng biển Việt Nam và cũng
không thấy có ủy viên trung ương đảng nào tỏ ra bức xúc. Hình như đối với ông
Trọng và đảng cộng sản không có vấn đề gì cả.
Về phía nhà nước cả chủ
tích nước lẫn thủ tướng đều không tuyên bố gì với quốc dân. Quốc hội cũng không
có phản ứng. Ông chủ tịch nước Trương Tấn Sang kêu ca trong một buổi tiếp xúc với
cử tri một quận rằng “anh phải rút đi chứ, nhà tôi chứ đâu phải nhà anh!”. Không
khác gì một người dân oan trong số hàng triệu dân oan của chế độ. Ông chủ tịch
thừa biết những tiếng kêu than này có tác dụng gì. Ông thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng chỉ nói trước hội nghị ASEAN một phần rất nhỏ những điều mà mọi người đều
đã biết và cũng không dám kêu gọi hậu thuẫn của thế giới, sau đó cũng chỉ trả lời
với ký giả nước ngoài, tại nước ngoài, rằng “không chấp nhận đánh đổi chủ
quyền để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc”.Không một cấp
lãnh đạo quốc gia nào trong trường hợp Việt Nam khi ra nước ngoài và bị các ký
giả chất vấn có thể nói yếu hơn.
Ông đại tướng bộ trưởng
quốc phòng Phùng Quang Thanh được một cơ hội bằng vàng để bảo vệ lập trường của
Việt Nam khi tham dự Đối Thoại Shangri-La 13. Trước đó cả thủ tướng Nhật Shinzo
Abe lẫn bộ trưởng quốc phòng Mỹ Chuck Hagel đều đã mạnh mẽ tố giác hành động của
Trung Quốc và tuyên bố sẽ không để Trung Quốc lộng hành trên Biển Đông, sẽ sẵn
sàng giúp các nước trong vùng, kể cả Việt Nam, phương tiện tự vệ. Một chính quyền
Việt Nam quan tâm bảo vệ chủ quyền không thể mong đợi nhiều hơn. Tuy vậy ông
Thanh đã tuyên bố rằng “quan hệ giữa Việt Nam và nước bạn láng giềng Trung
Quốc về tổng thể trên các mặt đang phát triển tốt đẹp ”và vụ giàn khoan HD-981
chẳng có gì nghiêm trọng vì “mỗi gia đình cũng còn có những mâu thuẫn, bất
đồng, huống chi là các nước láng giềng”. Chẳng khác gì bảo Mỹ, Nhật và thế
giới đừng xía vào, hãy để mặc Việt Nam giải quyết với Trung Quốc. Nhưng giải
quyết như thế nào? Ông Thanh chỉ dám “đề nghị Trung Quốc rút giàn
khoan ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam”. Thật khó
có thể có một bộ trưởng quốc phòng bất xứng hơn.
Bộ ngoại giao cũng không
dám triệu tập đại sứ Trung Quốc để phản đối dù đây phản ứng nhẹ nhất trong trường
hợp này. Các chính phủ triệu tập đại sứ trong những trường hợp không quan trọng
hơn nhiều; thí dụ như Bắc Kinh đã triệu tập đại sứ Mỹ tại Trung Quốc để phản đối
việc năm sĩ quan Trung Quốc bị tố giác là có hoạt động gián điệp. Đại sứ Trung
Quốc tại Việt Nam là một đại sứ hay một thái thú? Tệ hơn nữa, bộ ngoại giao còn
làm một việc rất vô ý thức là triệu tập đại điện sứ quán Trung Quốc (nhấn
mạnh: đaị diện sứ quán chứ không phải đại sứ) sau khi một tàu cá Việt Nam bị đụng
chìm ngày 26-5. Như vậy là việc Trung Quốc tìm dầu trong hải phận Việt Nam
không nghiêm trọng bằng một chiếc tàu cá bị đụng chìm? Chỉ một tháng sau khi
hành động xâm lược của Trung Quốc diễn ra phái bộ Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc mới
cho phổ biến một thư luân lưu đến đại diện các nước, nhưng đây cũng chỉ là một
thông báo mà thôi chứ không kêu gọi một hành động quốc tế nào cả.
(Đến đây xin mở một ngoặc
đơn. Sự nhu nhược này không phải do lỗi của bộ ngoại giao, mà là vì bộ ngoại
giao không có quyền quyết định. Chính sách cũng như hành động đối ngoại hoàn
toàn ở trong tay một một vài người trong bộ chính trị; những người này khống chế
được bộ máy đảng và nhà nước và quyết định chính sách đối ngoại một cách hoàn
toàn bí mật. Ngay cả những cấp lãnh đạo, kể cả đa số ủy viên trung ương đảng,
cũng chỉ biết đến những thay đổi định hướng đối ngoại rất lâu sau khi chúng đã
thành một thực tế. Cuối thập niên 1950 Lê Duẩn và Lê Đức Thọ quyết định theo
Trung Quốc (để có thể phát động nội chiến) và thanh trừng những phần tử bị cáo
buộc là “xét lại chống đảng” vì thân Liên Xô. Không ai biết. Gần mười năm sau họ
đổi hướng 180 độ và theo Liên Xô chống Trung Quốc. Cũng không ai biết. Năm 1984
sau khi Liên Xô bối rối không bảo vệ được chế độ CSVN nữa, Nguyễn Văn Linh được
đưa trở lại bộ chính trị rồi trở thành tổng bí thư để thực hiện chính sách đầu
hàng và thần phục Trung Quốc cùng với Lê Đức Anh và Đỗ Mười. Vẫn không ai biết.
Trí thức Việt Nam còn tung hô Nguyễn Văn Linh như một người của đổi mới mà
không biết rằng ông ta chỉ là người của Trung Quốc).
Chính quyền CSVN đã không
nói gì với nhân dân. Họ không cần giải thích gì cả bởi vì họ không thấy có một
bổn phận nào đối với nhân dân Việt Nam cả; họ là một lực lượng chiếm đóng và thống
trị chứ không phải là một chính quyền Việt Nam. Họ còn dùng bọn côn đồ – mà họ
vẫn thường dùng để hành hung những người dân chủ – để gây bạo động và lấy đó
làm cớ để cấm đoán những cuộc biểu tình của những người yêu nước phản đối hành
động xâm lược của Bắc Kinh. Nếu họ thực sự là dụng cụ của Trung Quốc để bán đứng
đất nước họ cũng không thể làm khác.
Chúng ta có thể tự hỏi tại
sao Trung Quốc lại làm như vậy? Hành động của họ đáng lẽ phải là một hành động
ngu xuẩn rất có hại cho họ, nhưng họ đã thành công bởi vì họ biết trước phản ứng
của Hà Nội. Tất cả diễn ra như một kịch bản đã được chuẩn bị trước.
Không thể loại trừ khả
năng là giữa Bắc Kinh và Hà Nội đã có những thỏa ước không được công bố và Bắc
Kinh đã dựa vào đó để hành động. Nếu không thì không ai có thể giải thích tại
sao chính quyền Hà Nội không đưa vấn đề ra công pháp quốc tế dù sau hơn 20 lần
tiếp xúc vẫn chỉ nhận được một câu trả lời trịch thượng của Bắc Kinh là không
có gì để thảo luận cả vì họ hoàn toàn đúng. Người ta có thể nghĩ như vậy khi đọc
lại bản tuyên bố chung Việt – Trung ngày 21/06/2013 sau chuyến thăm viếng Bắc
Kinh của ông Trương Tấn Sang:
“Hai bên hoan
nghênh Thỏa thuận sửa đổi liên quan tới Thỏa thuận thăm dò chung
trong khu vực thỏa thuận ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ được ký kết giữa
doanh nghiệp hữu quan hai nước, nhất trí mở rộng diện tích khu vực thỏa
thuận, kéo dài thời hạn thỏa thuận, cùng nhau thúc đẩy hoạt động thăm dò chung
đối với cấu tạo dầu khí vắt ngang đường phân định trong Vịnh Bắc Bộ sớm đạt được
tiến triển tích cực”. (Tác giả tô đậm những cụm từ đáng chú ý).
Thỏa thuận sửa đổi nào?
Thoả thuận thăm dò chung nào? Khu vực thỏa thuận nào? Mở rộng diện tích khu vực
thỏa thuận tới đâu? Nhân dân Việt Nam không được biết, tất cả đều chỉ là những
cam kết dấm dúi giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và quan thày Trung Quốc của họ.
Cũng không nên quên câu nói của thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh – một người rất thận
cận với ông Dũng đồng thời cũng là một trong những người nhiều quyền lực nhất
hiện nay – đại diện Việt Nam trong cuộc đàm phán Việt – Trung năm 2012: “Việt
Nam không còn bất cứ băn khoăn gì khi hợp tác với Trung Quốc trên mọi lĩnh vực “.
Không
còn bất cứ băn khoăn nào, vậy việc Trung Quốc chiếm Hoàng Sa và Trường Sa coi
như đã xong? Nếu quả thực như thế thì Trung Quốc có quyền làm những gì họ đang
làm. Có những lúc mà ngôn ngữ không đủ để nói lên sự ngạc nhiên và phẫn nộ.
Cũng đáng ngạc nhiên và
thất vọng không kém là thái độ của nhiều trí thức Việt Nam. Họ chống ách lệ thuộc
Bắc Kinh và muốn “thoát Trung” nhưng lại ủng hộ Nguyễn Tấn Dũng. Đối với họ
Nguyễn Tấn Dũng là người tiến bộ, thân phương Tây và dám đối đầu với Bắc Kinh.
Lý do là vì ông đã gửi con đi du học Mỹ, đã gửi thông điệp đầu năm nói tới “đổi
mới thể chế” và “xây dựng dân chủ” và mới đây đã công khai phản đối việc Trung
Quốc vi phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, sau đó lại tuyên bố không chấp
nhận quan hệ lệ thuộc.
Tại sao lại có thể nông cạn
và dễ tính đến thế được? Việc ông Dũng gửi con sang du học tại Mỹ không chứng
minh gì cả; phần lớn các lãnh tụ chóp bu Nga và Trung Quốc cũng làm như thế,
chính bản thân Tập Cận Bình cũng đã thực tập tại Mỹ. Chính quyền Trung Quốc
cũng vừa tiết lộ là có hơn một nghìn quan chức tỉnh Quảng Đông gửi con du học
các nước phương Tây.
Gửi con đi học tại Mỹ không có nghĩa là thân Mỹ. Mà dù có
được đào tạo tại phương Tây cũng không có nghĩa là đã trở thành người dân chủ.
Cho tới thập niên 1980 hầu như tất cả các chế độ Châu Mỹ La Tinh đều là những
chế độ độc tài mafia do những kẻ tốt nghiệp tại các trường đại học Mỹ cầm đầu.
Bachar al Assad, tên độc tài khát máu tại Syria, tốt nghiệp tại Anh. Giáo dục
quả nhiên thay đổi cách suy nghĩ nhưng thường phải một hai thế hệ. Người ta cố
tình gán cho Nguyễn Tấn Dũng những chủ trương mà ông không bao giờ có, hơn nữa
còn chống lại một cách hung bạo. Có những vị hân hoan vì ông Dũng nói tới “phát
huy dân chủ” trong bài thông điệp đầu năm, nhưng đó hoàn toàn chỉ là thứ dân chủ
mà ĐCSVN đã nói tới từ thời Việt Nam Dân Chủ Công Hòa, nghĩa là dân chủ kiểu xã
hội chủ nghĩa, cái dân chủ mà bà Nguyễn Thị Doan đánh giá là ưu việt gấp triệu
lần dân chủ đa nguyên đa đảng. Hoàn toàn không có gì mới. Điều chắc chắn là ông
Nguyễn Tấn Dũng đã tuyên bố “nhất định không để nhen nhúm những tổ chức đối
lập”. Đó là xây dựng dân chủ? Cũng đừng quên rằng chính ông Dũng đã ký quyết
định 97/2009/QĐ-TTg cấm phản biện và khai tử nhóm IDS.
Ca tụng ông Dũng là dám
chống Trung Quốc cũng chỉ là lấy mơ ước làm sự thực, hay tệ hơn nữa là tán tụng
kẻ có quyền, một thái độ chẳng có gì đáng tự hào. Về vụ HD-981 ông Dũng đã chỉ
nói một phần nhỏ những điều mà mọi người đã biết. Còn câu “không chấp nhận đánh
đổi chủ quyền để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc”thì quả
là vớ vẩn. Có gì là khảng khái? Ai có thể nói ngược lại? Ông Dũng còn phải cố gắng
nhiều, rất nhiều, nếu muốn chứng tỏ thực tâm bảo vệ chủ quyền dân tộc.
Điều chắc chắn là ông
Dũng đã góp phần quyết định đưa Việt Nam đi sâu vào thế lệ thuộc Trung Quốc. Lệ
thuộc Trung Quốc là chọn lựa chiến lược của ĐCSVN từ giữa năm 1984 và là trách
nhiệm chung của các bộ chính trị từ đó.
Nhưng cũng có những điều chủ yếu thuộc
trách nhiệm của hành pháp, nghĩa là thủ tướng. Như cho Trung Quốc thuê dài hạn
rừng đầu nguồn; cho Trung Quốc thuê những vùng biển rộng lớn để khai thác hải sản;
cho các doanh nghiệp Trung Quốc đưa công nhân ồ ạt sang Việt Nam và tổ chức như
những khu riêng của người Hoa; cho người và hàng hóa Trung Quốc vào Việt Nam
không kiểm soát; xuất khẩu hàng hóa Trung Quốc mang nhãn made in Vietnam sang
Hoa Kỳ và Châu Âu đưa thâm thủng mậu dịch với Trung Quốc lên 24 tỷ USD; cho
Trung Quốc trúng thầu gần hết các dự án và sau đó thi công một cách bê bối v.v.
Cũng đừng quên Nguyễn Tấn Dũng là người bảo vệ dự án Bô-xit Tây Nguyên một cách
quả quyết nhất, tuyên bố “dự án này phải tiếp tục vì là một chủ trương lớn
của Đảng”. Đinh Đăng Định chỉ có tội phản đối dự án này mà bị cầm tù tới
chết. Riêng về điểm này phải nhìn nhận là ông Trương Tấn Sang đã tỏ ra có trách
nhiệm hơn và phần nào đã bênh vực những người phản đối.
Điếu Cày có tội gì mà bị
xử tới 12 năm tù sau khi đã ở tù 3 năm? Anh chẳng viết hay tuyên bố gì đáng
nói. Tội duy nhất của Điếu Cày là đã tổ chức những cuộc biểu tình chống ngọn đuốc
Thế Vận Bắc Kinh 2008. Nguyễn Xuân Nghĩa bị xử 6 năm tù -và còn bị công an cho
thường phạm đánh trong tù- chỉ vì căng những biểu ngữ “Hoàng Sa Trường Sa
Việt Nam”. Không thể nói rằng đây là chính sách của Đảng; chính sách phục
tùng Trung Quốc là của Đảng nhưng sự hung bạo là của Nguyễn Tấn Dũng.
Cũng
không nên quan trọng hóa quá đáng vai trò của bộ chính trị. Ông Dũng chẳng coi
bộ chính trị ra gì, bộ chính trị muốn kỷ luật ông mà không được, muốn đưa hai
ông Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình Huệ vào bộ chính trị cũng không được. Nguyễn
Tấn Dũng mạnh hơn bộ chính trị vì kiểm soát được đa số trong ban chấp hành
trung ương.
Ai thắc mắc điều này có thể nhìn vào những bản án dành cho Trần Huỳnh
Duy Thức và Cù Huy Hà Vũ. Duy Thức sử dụng tài liệu do văn phòng Trương Tấn
Sang cung cấp để tố cáo Nguyễn Tấn Dũng tham nhũng và lãnh 16 năm tù trước sự bất
lực của phe Trương Tấn Sang, Hà Vũ đòi kiện Nguyễn Tấn Dũng về vụ Bô-xit và
lãnh 7 năm dù thuộc diện con cháu công thần và được nhiều che chở ngay trong đảng.
Bản hiến pháp mới vừa có hiệu lực từ đầu năm nay trong đó nét đậm nhất là rập
khuôn theo chế độ Trung Quốc cũng là do ông Dũng đưa ra trước đại hội Đảng thứ
11; chỉ có điều là sau đó có quá nhiều vụ bê bối bị phát giác khiến ông không
giành được chức tổng bí thư đảng như dự tính.
Cũng Nguyễn Tấn Dũng vừa
ra chỉ thị cấm biểu tình phản đối Trung Quốc xâm phạm hải phận Việt Nam. Tại
sao cấm những cuộc biểu tình chính đáng này? Và tại sao không thấy trí thức
trong nước nào lên tiếng mạnh mẽ phản đối quyết định này? Ông Dũng viện cớ ngăn
ngừa những bạo loạn như dã xảy ra tại Bình Dương, nhưng ai điều động bọn côn đồ
đập phá? Bọn này rõ ràng là được công an bảo kê. Chúng chỉ có vài chục đứa mà
dám đến các doanh nghiệp đòi phải để công nhân ngừng làm việc để đi biểu tình
và khi được trả lời là công nhân đã đi biểu tình rồi thì đòi vào khám nhà máy
xem còn công nhân không. Nhà máy cầu cứu thì được công an lời là“không thể làm
gì cả”. Tại sao công an lại không thể làm gì cả, trừ khi được lệnh cấm can thiệp?
Rồi sau những thiệt hai to lớn đã có sĩ quan công an nào bị khiển trách không?
Bình thường trước một sư kiện nghiêm trọng như vậy chính bộ trưởng công an phải
tự kiểm điểm, thậm chí phải từ chức hoặc bị cách chức.
Nên nhớ rằng công an
hoàn toàn ở trong tay ông Dũng. Giải thích hợp lý nhất là chính ông Dũng đã tạo
ra những cuộc bạo loạn này để có cớ cấm những cuộc biểu tình chống Trung Quốc.
Nhưng giải thích này có thể chưa đủ. Có thể còn có cả sự phối hợp với Trung Quốc
– cả trong vụ giàn khoan HD-981 lẫn những diễn tiến sau đó – để tạo ra một tình
trạng căng thẳng vừa biện minh cho sự suy sụp kinh tế không thể che giấu được nữa
vừa giúp Nguyễn Tấn Dũng lấy cớ vãn hồi an ninh trật tự làm một cuộc đảo chính
– công khai hoặc ngầm – thu tóm mọi quyền lực trong tay và vô hiệu hóa các đối
thủ. Rất có thể. Bởi vì Trung Quốc không thể tìm được một đồng minh lý tưởng
hơn ông Dũng, ông vừa hợp tác tận tình với Trung Quốc vừa thẳng tay đàn áp những
người chống Trung Quốc. Ai cũng phải thấy là vụ giàn khoan HD-981 đã chỉ có lợi
cho Nguyễn Tấn Dũng.
Nguyễn Tấn Dũng có thể
không phải là người nhiệt tình nhất với chính sách phục tùng Trung Quốc nhưng
cũng không ai có thể thân Trung Quốc hơn ông. Muốn “thoát Trung” mà lại “phò
Dũng” là rất sai, sai một cách bi đát.
Có thể nói gì thêm về
Nguyễn Tấn Dũng?
Khi lên làm thủ tướng ông
tuyên bố nếu không dẹp được tham nhũng ông sẽ từ chức. Thực tế là tham nhũng
không giảm đi, cũng không thể nói là tăng lên, mà phải nói là đã bùng nổ dưới
chính phủ của ông Dũng. Hối lộ, vơ vét, móc ngoặc, mua quan bán chức đã trở
thành qui luật dưới chính quyền Nguyễn Tấn Dũng. Phải nói một cách thật rõ rệt:
nếu không dẹp được tham nhũng thì đất nước không có tương lai. Nguyễn Tấn Dũng
không dẹp mà còn giúp tham nhũng bành trướng. Như vậy không thể viện dẫn bất cứ
lý do nào để ủng hộ ông.
Ông Dũng đã khởi xướng ra
“sáng kiến” dùng bọn côn đồ làm cánh tay nối dài của công an để hành hung dân
oan và những người dân chủ. Tôi được nghe hai tiếng “đầu gấu” lần đầu tiên từ
ông Hoàng Minh Chính qua điện thoại năm 2002. Ông Chính cùng các thân hữu tới
tòa án ủng hộ Lê Chí Quang đang bị xét xử. Ông la lên: “Chúng nó dùng bọn
đầu gấu đánh anh em dân chủ!”. Lúc đó ông Dũng vừa lên làm phó thủ tướng nhưng
quyền lực át hẳn ông thủ tướng rất lu mờ Phan Văn Khải. Vài năm sau chính ông
Hoàng Minh Chính cũng bị bọn đầu gấu xô đẩy và bị ném đồ dơ bẩn khi đi chữa bệnh
ở Mỹ về, người nhà bị hành hung. Hiện tượng đầu gấu liên tục phát triển cùng với
quyền lực của ông Dũng, đến mức giờ đây khó phân biệt công an và côn đồ. Hầu
như không có người dân chủ trẻ nào không bị đánh, kể cả các phụ nữ như Phạm
Thanh Nghiên, Nguyễn Hoàng Vi.
Dưới chính quyền của ông
Dũng công an trở thành hung bạo. Hiện tượng tra tấn nghi can, dùng thường phạm
đánh chính trị phạm trong nhà tù, đánh người, thậm chí đánh chết người, trong đồn
công an ngày càng trở thành bình thường. Đó chủ yếu là thành quả của ông Dũng.
Không thể nói rằng trách nhiệm của ông Dũng chỉ là đã không kiểm soát được công
an. Ông nắm rất vững lực lượng công an, ông xuất thân là một công an và từng là
thứ trưởng trực bộ công an. Công an không thể làm những gì mà ông cấm.
Nhiều người nói hãy cứ tập
trung phát triển kinh tế rồi sẽ có dân chủ. Những người này không hiểu kinh tế
và nói bậy. Nhưng ngay cả như thế thì Nguyễn Tấn Dũng cũng không phải là người
lãnh đạo quốc gia chấp nhận được. Ông tỏ ra rất thiếu bài bản về kinh tế.
Một vài thí dụ:
-Ít lâu sau khi chính thức
lên làm thủ tướng ông sang thăm Mỹ và tìm gặp Alan Greenspan, vừa mãn nhiệm kỳ
chủ tịch ngân hàng trung ương Mỹ, để chiêm ngưỡng một thiên tài kinh tế. Chỉ một
thời gian ngắn sau thế giới nhận ra Alan Greenspan là thống đốc tồi nhất từ một
thế kỷ và đã gây ra cuộc khủng hoảng toàn cầu chưa từng có.
- Cuối năm 2007 ông Dũng
tung ra 150 nghìn tỷ đồng để mua 9 tỷ USD làm cả nước điêu đứng vì vật giá tăng
vọt, lý do là để “hỗ trợ đồng đô la” vì sợ hối suất đồng đô la Mỹ sẽ giảm sút
nghiêm trọng so với đồng tiền Việt Nam; dự đoán này sai một cách lố bịch vì điều
ngược lại đã xảy ra. Đồng đô la lúc đó bằng 15.000 đồng Việt Nam, ngay
sau đó nó đổi lấy 18.500 đồng.
- Cuối năm 2008 chính phủ
của ông Dũng trổ tài một lần nữa. Thấy thực phẩm lên giá đột ngột họ ra lệnh cấm
xuất cảng gạo vì nghĩ rằng giá gạo sẽ còn tăng thêm và sợ bán hố. Sau đó thì
giá gạo xuống nhanh và nông dân khốn khổ. Thực ra giá thực phẩm chỉ biến động
trong một thởi gian ngắn, ngay lúc ông Dũng lấy quyết định ngớ ngẩn đó thị trường
gạo đã trở lại bình thường rồi.
- Năm 2009 ông Dũng tung
ra “gói kích cầu” 8 tỷ USD để kích thích tăng trưởng kinh tế. Theo lời bộ trưởng
Kế Hoạch và Đầu Tư Bùi Quang Vinh thì số tiền 8 tỷ USD này đã mất toi và “doanh
nghiệp bây giờ chết hết rồi”.
Sai lầm tai hại nhất của
ông Dũng là lập ra những tập đoàn lớn, bắt chước các chaebol của Hàn Quốc dù
không có những cấp lãnh đạo tương xứng và cũng không có cả những công ty đúng
nghĩa. Kết quả là tất cả 127 tập đoàn đều lỗ nặng vì chỉ là những ổ lãng phí và
tham nhũng. Chúng đang gánh một tổng số nợ gần 100 tỷ USD.
Ai sẽ trả cái giá
kinh khủng của sự ngu dốt này nếu không phải là thế hệ đang lớn lên? Trung bình
mỗi người Việt Nam sẽ phải trả 1000 USD (22 triệu đồng) vì sự bất tài, tham
nhũng và tính vĩ cuồng của chính quyền Nguyễn Tấn Dũng. Trong kỷ nguyên tri thức
này không một quốc gia nào có thể chấp nhận một người lãnh đạo thiếu hiểu biết
như ông Dũng mà không tàn lụi. Ngày nay người ta không còn có thể nói là đã có
các cố vấn vì các vấn đề đã trở thành quá phức tạp và các dữ kiện thay đổi quá
nhanh chóng. Muốn tuyển chọn các cố vấn có thực tài và sau đó trọng tài giữa
các đề nghị phức tạp thì bắt buộc phải có một trình độ nào đó mà ông Dũng hoàn
toàn không có.
Điều quan trọng cần được
đặc biệt lưu ý là Việt Nam vừa để mất một cơ hội bằng vàng để vươn lên. Năm
2007, sau khi Việt Nam gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới vốn và kỹ thuật nước
ngoài đã ồ ạt đổ vào nước ta. Khối lượng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam lớn hơn
tổng số đầu tư vào tất cả các nước trong vùng. Khối lượng đầu tư nước ngoài to
lớn này có lúc đã tạo ra ảo tưởng, nhưng sau đó sự bất tài, tham nhũng và những
vụ án chính trị thô bạo đã khiến các nhà đầu tư chán ngán bỏ đi. Họ sẽ chỉ trở
lại nếu Việt Nam thay đổi chế độ chính trị.
Đặc tính nổi bật và phải
lên án nhất của ông Dũng là sự hung bạo đối với những người dân chủ. Những vụ
trước đây bị xử 2 hoặc 3 năm – như thế đã là rất thô bạo vì các nạn nhân hoàn
toàn vô tội – có thể bị xử trên 10 năm trong mấy năm gần đây sau khi ông Dũng
đã thu tóm được phần lớn quyền lực trong tay. Vào năm 2007 Lê Thị Công Nhân bị
xử 3 năm tù, Nguyễn Văn Đài 4 năm, nhưng từ năm 2010 trở đi Trần Huỳnh Duy Thức
bị xử 16 năm, Điếu Cày 15 năm, Tạ Phong Tần 10 năm, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng 9
năm, Đỗ Thị Minh Hạnh 7 năm. Sự hung bạo đã tăng gấp ba.
Tóm lại Nguyễn Tấn Dũng
là một người rất thiếu kiến thức và khả năng, rất tham nhũng, rất tận tình với
Trung Quốc và rất hung bạo đối với những người dân chủ và những người chống
chính sách lệ thuộc vào Bắc Kinh. Hơn nữa còn là người đã gây thiệt hại lớn nhất
– về mọi mặt kinh tế, xã hội, đạo đức và môi trường – cho đất nước từ hơn mười
năm nay. Người ta có thể không dám đả kích ông Dũng vì ông là người đầy quyền lực
và rất hung bạo, nhưng ủng hộ và ca tụng ông là chuyện khác.
Làm sao không khỏi phiền
lòng khi đọc thư ngỏ của nhiều trí thức có uy tín đánh giá những lời tuyên bố
mơ hồ, chung chung, vớ vẩn của ông Dũng “thể hiện đúng ý chí của nhân dân ta”. Ý
chí của nhân dân ta đâu phải chỉ có thế. Hay khi đọc lời thuật rằng “cuộc
hội thảo về “thoát Trung” là do cảm hứng vì những lời tuyên bố của thủ tướng”. Cảm
hứng quá hời hợt. Và làm sao có thể thảo luận về “thoát Trung” nếu, như ban tổ
chức yêu cầu, không được phép phê phán một chính quyền coi phụ thuộc Trung Quốc
là điều kiện để tồn tại? Cần nhấn mạnh lệ thuộc Trung Quốc không phải là yêu cầu
của nhân dân Việt Nam mà chỉ là nhu cầu sống còn của chế độ cộng sản.
Các trí thức đang ủng hộ
ông Dũng và muốn ông Dũng có thế mạnh hơn nữa phải rất cảnh giác. Họ có thể sắp
được mãn nguyện đấy, nhưng đó sẽ chỉ là một thảm kịch cho đất nước.
Để kết luận, xin có một lời
cải chính nếu những gì vừa viết ở trên có thể khiến độc giả nghĩ rằng tôi bi
quan. Không, tôi không hề bi quan. Trái lại tôi tin rẳng chúng ta có thể lạc
quan. Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh lịch sử quan trọng, hạn kỳ dân chủ
có thể rất gần.
Dù muốn hay không Trung
Quốc cũng sẽ không thể là một chỗ dựa cho chế độ cộng sản Việt Nam nữa. Trung
Quốc đã tích lũy quá đủ mâu thuẫn và khó khăn và đang sắp đi vào một cuộc khủng
hoảng rất lớn. Khủng hoảng kinh tế, tài chính và môi trường. Khủng hoảng mô
hình, chính trị, đồng thuận và căn cước. Chính sự thống nhất của Trung Quốc
cũng sẽ không được bảo đảm. Trung Quốc sẽ phải dồn mọi cố gắng để lo cho chính
mình và sẽ không còn sức lực và ý chí để tiếp tục chính sách bành trướng bá quyền.
Dù muốn hay không quan hệ lệ thuộc Việt Trung cũng sẽ phải chấm dứt.
Vấn đề lớn
của chúng ta không phải là “thoát Trung” mà là “giải Cộng” nghĩa là chấm dứt chế
độ độc tài đảng trị trong tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc.
Ngay cả nếu kịch bản Nguyễn
Tấn Dũng thâu tóm mọi quyền lực xảy ra thì nó cùng lắm cũng chỉ có thể làm chậm
lại đôi chút chứ không thể ngăn chặn tiến trình dân chủ hóa. Nó sẽ chỉ là một sự
chuyển hóa từ độc tài đảng trị sang độc tài cá nhân, và sự chuyển hóa này cũng
chỉ là một chặng đường quen thuộc trong tiến trình đào thải của các chế độ độc
tài.
Chúng ta còn một lý do
quan trọng khác để tin tưởng: một tầng lớp trí thức chính trị, tầng lớp mà
chúng ta chưa bao giờ có trong suốt dòng lịch sử, đang hình thành. Đó là những
trí thức trẻ. Họ hiểu biết về chính trị và tình hình thế giới hơn hẳn thế hệ cha
anh, không ràng buộc với chế độ, không khiếp sợ cũng không trông đợi gì ở bạo
quyền và thẳng thắn chọn lựa dân chủ. Họ đã nắm được chìa khoá của tương lai, kể
cả tương lai rất gần. Sự chuyển giao thế hệ sắp hoàn tất. Đất nước phải thay đổi
vì đã thay da đổi thịt.
Kỷ nguyên tự do dân chủ sắp
mở ra và các thế hệ mai sau sẽ nhận diện những con người của đất nước hôm nay. Ở
thời điểm này quỵ lụy, luồn cúi không chỉ là bệ rạc mà còn là dại dột.
eThông Luận
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét