Vanuxem, cựu Trung Tướng Quân Lực Pháp
Phỏng dịch: Cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa
4-02-2010
... trên mảnh đất đầy hình ảnh đau thương và tàn khốc của cuộc chiến, người ta đã “đóng khuôn” cho miền Nam Việt Nam trong nhiệm vụ phòng thủ thụ động, và các đồng minh lớn của họ không bao giờ muốn cho họ đi ra ngoài khuôn khổ nhiệm vụ đó, trong khi bộ đội Bắc Việt thì được tung ra trên khắp cả 3 nước Đông Dương, từ Lào, Cam Bốt đến Miền Nam Việt Nam, ẩn hình dưới danh nghĩa của lực lượng cách mạng Pathet Lào, Khmer đỏ, và Việt Cộng, để rồi cuối cùng họ cũng phải bỏ cái mặt nạ của họ ra, hiện “nguyên hình” là quân xăm lăng Bắc Việt, là kẻ chiến thắng, để tiến vào Sài Gòn.
Phản ứng của người dân, thường hay trút hết trách nhiệm cho
người lãnh đạo hoặc cho người lính chiến. Tại Việt Nam thì cả hai đều có phần
trách nhiệm của mình, nhưng cả hai đều không thể làm gì hơn được với hai bàn
tay trắng vì đã bị người ta tước hết khí giới từ lâu!
Nhưng cũng có người chỉ đứng về một phía, đã khẳng định quá đơn
phương, và khiếm diện rằng chỉ cần người Mỹ, hay đúng hơn là đế quốc Mỹ như người
ta đã cáo buộc, chấm dứt mọi viện trợ kinh tế và quân sự cho miền Nam Việt Nam,
là miền Bắc sẽ chấm dứt cuộc chiến tranh nầy trong chiến thắng. Và đó là những
điều đã xảy ra trên thực tế.
Người ta đã từng cho rằng chiến tranh ở Việt Nam không phải
là một cuộc nội chiến giữa miền Nam và miền Bắc, vì nếu giữa người Việt với
nhau thì không chóng thì chầy họ đã có thể đạt được một sự thỏa thuận nào đó với
nhau rồi. “Nhưng đây là một cuộc chiến tranh giữa các siêu cường”
Nhưng đây là một cuộc chiến tranh giữa các siêu cường quốc,
mượn tay người Việt Nam (hay sinh mạng người Việt Nam cũng thế) và ngay trên
lãnh thổ Việt Nam, để so tài hơn thua cao thấp với nhau, ngăn chặn nhau không
cho bên nào bành trướng thêm ra hơn nữa, vì hai bên không thể trực tiếp đối đầu
với nhau được, tránh bị tổn thất nặng có thể đi đến chỗ tiêu diệt lẫn nhau. Có
điều là cả hai bên đều nuôi dưỡng một mối thù hằn mà nguyên nhân không phải xuất
phát từ nước Việt Nam và nước Việt Nam cũng không có gì để mà thiết tha quan
tâm đến.
Hoa Kỳ thì "ngăn chận", Khối Cộng Sản thì
"xâm chiếm, bành trướng"
|
Người ta có thể thấy được rất rõ là Nga và Trung Quốc vẫn không bao giờ che dấu
tham vọng xâm chiếm toàn cầu của họ theo đúng hướng chiến lược đã hoạch định
trước rất rõ ràng, và nếu Hoa Thịnh Đốn chỉ bo bo theo sách lược “tạo uy tín và
bành trướng kinh tế” thì chiến lược đó của Hoa Kỳ hoàn toàn nằm trong thế thủ,
bị động.
Đặc biệt là ở Á Châu, Hoa kỳ nhất nhất theo thuyết “ngăn chận” các bước
tiến của Cộng Sản. Do vậy mà trên mảnh đất đầy hình ảnh đau thương và tàn khốc
của cuộc chiến, người ta đã “đóng khuôn” cho miền Nam Việt Nam trong nhiệm vụ
phòng thủ thụ động, và các đồng minh lớn của họ không bao giờ muốn cho họ đi ra
ngoài khuôn khổ nhiệm vụ đó, trong khi bộ đội Bắc Việt thì được tung ra trên khắp
cả 3 nước Đông Dương, từ Lào, Cam Bốt đến Miền Nam Việt Nam, ẩn hình dưới danh
nghĩa của lực lượng cách mạng Pathet Lào, Khmer đỏ, và Việt Cộng, để rồi cuối
cùng họ cũng phải bỏ cái mặt nạ của họ ra, hiện “nguyên hình” là quân xăm lăng
Bắc Việt, là kẻ chiến thắng, để tiến vào Sài Gòn.
Tuy trận tấn công vào tỉnh lỵ Phước Long vào tháng 1-75 của
bộ đội Bắc Việt là một cuộc tấn công có giới hạn (mà phía Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa một phần vì sợ bị nhử vào bẫy có thể bị hao quân và mất thêm chiến cụ, một
phần cũng không có đủ lực lượng để đối phó được với một loại tấn công qui mô
như vậy, nên không có phản ứng đối kháng mạnh, nhưng họ cũng thu lượm được quá
đủ bằng cớ để chứng minh với những ai còn chút nghi ngờ, là “Hoa Kỳ không còn
can thiệp vào chiến cuộc nữa”. Và như vậy là Bắc Việt cho tiến hành ngay cuộc tổng
tấn công mùa xuân với đầy đủ bảo đảm trong một sự an toàn tuyệt đối.
Rõ ràng là Hoa Kỳ đã khuyến khích Bắc Việt bằng thái độ im lặng
và quá thụ động của họ sau vụ tấn công quan trọng vi phạm rất nặng và rất trắng
trợn “Hiệp Định Paris 1973 về Ngừng Bắn và Tái Lập Hòa Bình ở Việt Nam”. Thật
ra, Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa đã được báo động về thái độ “bất can thiệp” nầy
của Hoa Kỳ từ lâu rồi. Trong những tháng 1, 2, và 3-75, đã có nhiều nghị sĩ dân
biểu Hoa Kỳ đến thăm Việt Nam và đã từng xác nhận với Tổng Thống Thiệu là “viện
trợ của Hoa Kỳ cho Việt Nam Cộng Hòa trong những ngày sắp tới sẽ rất là mong
manh trong may rủi”. Mỉa mai thay, viện trợ nầy trước đó đã được Tổng Thống Hoa
Kỳ là ông Nixon long trọng tuyên hứa với Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa!!!
Những cuộc vận động của Hoa Kỳ
Tại Guam, Tổng Thống Nixon đã công bố kế hoạch 5 điểm trong
sách lược yểm trợ Thế Giới Tự Do của Hoa Kỳ, chính yếu là “cây dù nguyên tử” và
viện trợ đầy đủ vô điều kiện cho tất cả mọi quốc gia dân tộc nào chứng minh có
quyết tâm bảo vệ nền độc lập tự do của mình.
Hiệp Định Paris 1973, cuối cùng rồi cũng được Tổng Thống Thiệu
bằng lòng ký tên vào, vì ông không còn có khả năng từ chối thêm lần thứ hai, dù
đó chỉ là trong cung cách ngoại giao thôi, nhưng với những lý lẽ vững chắc mà
ông đưa ra trước khi ký, Tổng Thống Nixon đã phải đích thân nhận chịu trách nhiệm
chẳng những bằng lời nói mà còn cả trên giấy trắng mực đen nữa:
“Hoa Kỳ sẽ cung cấp viện trợ kinh tế và quân sự cho Việt Nam
Cộng Hòa để giúp Việt Nam Cộng Hòa đương đầu với mọi biến cố mà vì không có thiện
ý, Bắc Việt sẽ có thể không ngớt tạo ra sau nầy.”
Nếu trước kia Tổng Thống Nixon đã thật lòng đưa ra lời
hứa chắc chắn như vậy, không có một hậu ý quanh co ngoằn ngoèo nào, thì sau đó
với một anh chàng Kissinger mà ông chưa từng quen biết nhưng vì áp lực từ sự vận
động của cánh Do Thái sau khi ông đắc cử, ông đã trở nên bớt nhiệt tình hơn nhiều
đối với những gì mà ông đã long trọng cam kết với ông Thiệu.
Nhiều cuộc tranh luận gay gắt đã xảy ra trong những cuộc
thăm viếng sau đó, và ông Thiệu đã phải can thiệp thẳng với Nixon để cho thơ từ
công văn của ông, thường không được hồi âm, nay phải được tới tay ông Nixon mà
không đi qua sự kiểm duyệt của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Dã tâm của Kissinger, một
con người mà ai cũng cho là “bạn”, là “tri kỷ”, sau đó được phát giác tiết lộ
ra là: xuyên qua một đệ tam nhân, ông đã có những lời hứa hẹn cũng như thi hành
những cam kết không đồng nhứt với từng nhân vật cùng có trách nhiệm trong công
tác ngăn chận bước tiến của Cộng Sản Bắc Việt trên bán đảo Đông Dương, như
Hoàng Thân Souphana Phouma, Thống Chế Lon Nol và Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
Thế nhưng, vụ việc gây nhiều tai tiếng “Watergate” đã đưa
Nixon ra khỏi Nhà Trắng đồng thời giết chết cả thân thế và sự nghiệp chính trị
của ông ta, dẫn đến hậu quả tai hại là những gì ông Nixon đã cam kết, dù là
trên giấy trắng mực đen, đã không còn một chút giá trị nào nữa. Và sau đó, vào
tháng 8-1973, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu thuận cho tu chính án
“Case-Church” nhằm cắt hết ngân khoản dành cho mọi viện trợ quân sự cho các quốc
gia Đông Nam Á.
Cộng Sản tiến chiếm miền Nam qua hai cửa ngỏ chính: Cam Bốt và Lào
Do vậy, việc Mỹ chánh thức hứa giúp thành lập và trang bị quân đội Cam Bốt với
quân số 205,000 người phải được hủy bỏ. Hình thành được việc nầy sẽ giúp cho
Cam Bốt chẳng những có thừa khả năng dẹp được lực lượng Khmer Đỏ (tất cả cán bộ
khung đều là bộ đội Bắc Việt) mà còn lập lại được trật tự trong nước, đuổi các
sư đoàn Bắc Việt ra khỏi lãnh thổ Cam Bốt nữa, vì chính các đơn vị xăm lăng Bắc
Việt nầy đã tạo ra không khí cách mạng bất ổn ở nông thôn Cam Bốt, sau đó Hoàng
Thân Shianouk đã phải thoái vị và nước Cộng Hòa Khmer ra đời.
Điều đáng tiếc là ở Cam Bốt cao trào của giới trẻ mà người
ta gọi là “những anh lính chiến giờ thứ 24” đang lên vùn vụt, trong số nầy có
những sinh viên và học sinh lớp 5 lớp 6, tình nguyện ra mặt trận, chiến đấu rất
anh dũng bằng vũ khí tịch thu được của quân ngoại xâm Bắc Việt. Những người
“Khmer Tự Do” nầy (Khmer Krom) đã học và tiêm nhiễm lịch sử Pháp, rất tự tin và
đặt hết lòng tin vào lời hứa của Hoa Kỳ, đã nhất tề đứng dậy khi tổ quốc lâm
nguy, y như người Pháp chúng ta trong những biến cố cách mạng trong lịch sử vậy.
Trong lúc đó tại Thượng Viện Hoa Kỳ, nghị sĩ Fulright lại tuyên bố là cuộc chiến
ở Cam Bốt là một “cuộc chiến vô đạo đức!” Với một ít ngân khoản vụn vặt du di
được đâu đó, chánh phủ Hoa Kỳ “nhỏ từng giọt” giúp cho Cam Bốt, trong khi những
sư đoàn Bắc Việt ồ ạt viện trợ đúng mức cho các đơn vị “Khmer Đỏ” đang thành lập,
càng ngày càng lớn mạnh thêm lên. Do đó quân lực Cộng Hòa Khmer bị tiêu hao lần
lần để đi đến sụp đổ, và ngày 1-4-75, Thống Chế Lon Nol phải “chạy” khỏi thủ đô
Cam Bốt, sau đó Phnom Penh bị thất thủ vào ngày 10-4-75. Cũng trong thời gian nầy,
nỗ lực thành lập một chánh phủ “liên hiệp 3 thành phần” tại Vương Quốc Lào bị
thất bại và Cộng Sản Pathet Lào lên nắm chánh quyền, tuyên bố không chấp nhận sự
có mặt của người Mỹ tại đây.
Người ta thường hay nói chiến tranh ở Việt Nam chỉ là một cuộc
nội chiến, rất hạn chế giữa người Việt và người Việt mà thôi. Nhưng đến cuối
cùng sự thật cho thấy không phải như vậy. Cam Bốt là mục tiêu chủ yếu, là bàn đạp
quan trọng hàng đầu để từ đó Cộng Sản tiến chiếm miền Nam Việt Nam, và theo
quan điểm từ đầu của Hà Nội thì mục tiêu không phải chỉ có miền Nam Việt Nam mà
phải là toàn bộ bán đảo Đông Dương, vì đó mới là giấc mơ thật sự từ lâu của Hồ
Chí Minh.
Việc chiếm giữ các tỉnh miền Đông của cả hai quốc gia Lào và
Cam Bốt là chỉ nhằm dọn đường cho công tác tiếp vận của quân đội Bắc Việt. Sau
khi Hiệp Định Paris 1973 được ký kết, trong thời gian hơn một tháng, hệ thống
đường mòn thường gọi là “đường mòn Hồ Chí Minh” được họ cải tiến, mở rộng và trải
đá suốt cả tuyến đường, để từ Hà Nội, Bắc Việt có thể đưa quân lính, chiến cụ,
đạn dược cũng như xăng nhớt, đến một nơi chỉ còn cách Sài Gòn dưới 100 cây số
(Lộc Ninh) mà chỉ mất trên dưới có 5 ngày đường.
Các sư đoàn Bắc Việt đóng quân
thường xuyên dọc theo biên giới Lào và Cam Bốt, trên các cao điểm từ Bắc xuống
Nam, từ đó lúc nào cũng sẵn sàng tấn công xuống Miền Nam Việt Nam, một lãnh thổ
quá dài mà bề ngang quá hẹp, có đoạn dưới 100 cây số tính từ miền núi xuống đến
biển, nên thủ đô Việt Nam Cộng Hòa luôn bị đe dọa vì Sài Gòn chỉ cách biên giới
Lào-Khmer không quá 100 cây số ngàn, cũng giống y như hiệp ước đình chiến 1919
của nước Pháp chúng ta đã “bị” để cho các đơn vị Đức đóng quân ở vùng Aisne và
La Marne vậy.
Ngày 10-4-1975 thủ đô Phnom Penh bị thất thủ, ở Vientiane thì một
chánh phủ Cộng Sản đã lên cầm quyền, trong khi Vùng I và Vùng II của Việt Nam Cộng
Hòa cũng đã bị rơi vào tay Bắc Việt, như vậy Hà Nội được quá rảnh tay để sẵn
sàng đưa quân tràn xuống vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Hoa Kỳ sẽ không can thiệp nữa
Nhưng vẫn còn một yếu tố chưa biết rõ được: đó là phản ứng của Hoa Kỳ. Trước
đó, ngày 21-3-75, chánh phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt), trong một bản
tuyên bố, đã yêu cầu chánh phủ Hoa Kỳ chấm dứt tất cả mọi dính líu quân sự và mọi
hành động can thiệp vào việc nội bộ của Miền Nam Việt Nam.
Ngày 25-3-75, Tổng
Thống Ford gởi đến Sài Gòn tướng Weyand, Tham Mưu Trưởng Lục Quân Hoa Kỳ. Tướng
Weyand có vẻ thuận cho một hành động tiếp ứng tuy hơi muộn nhưng hữu hiệu bằng
cách cho lệnh thiết lập hai cầu không vận Bangkok-Saigon và Manila-Saigon, để kịp
tiếp vận cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Ngày 3-4-75, trong một cuộc họp báo, Tổng
Thống Ford tuyên bố là ông sẽ không bỏ rơi Đông Nam Á. Ông nói không nhất thiết
ông Thiệu phải rời khỏi chánh quyền, nhưng ông cũng bảo đảm thêm rằng cho dù có
một sự thay đổi nào đó của cấp lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa thì sự việc đó cũng
không thay đổi được nỗ lực của Hoa Kỳ tại Sài Gòn.
Ngày 10-4-75, ngay lúc Phnom Penh thất thủ, trong bài diễn
văn đọc trước Quốc Hội, Ông cho biết là ông có ý định tiếp tục cuộc chiến ở Việt
Nam, và tiếp tục ủng hộ chánh phủ Thiệu. Ông đề nghị với Quốc Hội một ngân khoản
viện trợ quân sự 722 triệu đô la, và một ngân khoản viện trợ kinh tế là 250 triệu.
Các nghị sĩ Stevenson, Humphrey, Jackson, Mc Govern và Kennedy đều chống lại đề
nghị nầy. Gần như Quốc Hội Hoa Kỳ đã mặc nhiên bỏ rơi cả ông Ford. Thế là hết !
Hoa Kỳ sẽ không can thiệp, và những quốc gia đã từng ký tên bảo đảm cho việc
thi hành Hiệp Định Paris 1973 cũng giữ một sự im lặng hoàn toàn! Còn nước Pháp
thì xuyên qua lời tuyên bố của Tổng Trưởng Ngoại Giao tại Dublin, trước một số
ngoại trưởng phần đông đều không muốn chen sâu vào việc nội bộ của một nước
khác, thì lại tỏ ý muốn thấy Tướng Thiệu rút lui, một điều rất trùng hợp với sự
mong muốn của Cộng Sản Bắc Việt, vì dưới con mắt của họ Tướng Thiệu là biểu tượng
của một tinh thần chống Cộng cực đoan, chống đến giọt máu cuối cùng.
Như vậy là thật sự Bắc Việt nay đã được rảnh tay trong hành
động rồi. Họ đã được bảo đảm là Hoa Kỳ sẽ không còn can thiệp được nữa. Họ cũng
đã thấy một sự tán thành ngấm ngầm của các nước khác, không những trong khối Cộng
Sản mà còn có cả các quốc gia cấp tiến, tự do nữa, trong đó dĩ nhiên là có cả
nước Pháp. Với tất cả mọi điều kiện thuận lợi chánh trị và quân sự như thế, Bắc
Việt quyết định cho tiến hành ngay “chiến dịch Hồ Chí Minh”, không cần phải mất
thêm thời gian chờ thành lập một “chánh phủ ba thành phần”, để nhanh chóng thôn
tính cả bán đảo Đông Dương trên cả hai phương diện quân sự và chánh trị.
Đúng như họ tuyên bố đây là một cơ hội ngàn năm mới chỉ có một
lần !
Vậy liệu người ta có nghi ngờ là người Mỹ đã phản bội đồng minh ? Nhân vật
chính yếu liên can trong nội vụ là Tổng Thống Thiệu, người biết rõ nhiều về những
lời hứa hẹn, cam kết, và thi hành. Ông đã công khai nêu rõ trước dư luận mà Hoa
Kỳ không dám có một tiếng trả lời, có chăng chỉ là những lời an ủi cam kết quá
muộn màng của một mối tình bạn bè, một mối tình loại “qua đường!”
Ông Thiệu là người không muốn chơi trò người hùng, cũng
không thích biểu tình hoan hô rầm rộ, nhưng rất nhạy cảm với lòng tin tưởng sâu
đậm của đồng bào miền Nam, bây giờ ván bài đã ngã ngũ, ông đã thua cả về chánh
trị lẫn quân sự, nên ông quyết định phải rời quê hương mà ông đã từng hiến dâng
tất cả. Với một tâm hồn chết lặng ông nói lên những lời từ biệt cuối cùng. Những
lời lẽ thật cảm động của ông được truyền đi trên đài phát thanh làm cho những
người dù cứng lòng đến đâu cũng phải nhỏ lệ, ngay những người đã từng muốn ông
phải từ chức cũng vậy. Ông ra đi, mang theo sự tin yêu và lòng mến phục của dân
chúng miền Nam mà từ đây không có ông, họ sẽ cảm thấy mất mát một cái gì ...
Đối với người Mỹ, ông đã có những sỉ vả thật dữ dội và nặng nề:
-Tôi đã nói với họ (Hoa Kỳ) rằng: Các ông muốn rút chân ra
khỏi cuộc chiến ở Việt Nam trong danh dự, mà các ông đòi hỏi chúng tôi những điều
thật vô lý không thể làm được chút nào. Đánh giặc mà viện trợ quân sự cứ nay bị
cắt mai bị xén mốt bị cúp mãi như thế, thì có khác nào chỉ cho tôi mỗi ngày có
3 đồng mà bảo tôi phải ăn tiêu như một ông hoàng hay một người khách du lịch
sang trọng! Các ông muốn chúng tôi hôm nay với một “xu ăn mày” phải làm được những
gì mà ngày hôm qua các ông không sao làm được với ngân khoản 6 tỷ đô la ...!
Tôi đã nói với họ rằng câu hỏi duy nhất hiện giờ là liệu Hoa Kỳ có quyết định
giữ những gì mà Hoa Kỳ đã cam kết với Việt Nam Cộng Hòa hay không? Và liệu những
lời nói và chữ ký của Tổng Thống Hoa Kỳ còn có chút giá trị gì nữa hay không!
Thế là quá rõ, Hoa Kỳ thật sự đã phản bội.....
Ngạo mạn và ngu xuẩn, lưỡng viện Hoa Kỳ đã nói lên sự vui mừng của họ về sự từ
chức của ông Thiệu, vì họ nghĩ nhờ đó sẽ có khả năng “đạt được một nền hòa bình
nào đó trong thương lượng” với Cộng Sản, trong giới hạn một thời gian nào đó,
“với đường lối chánh trị mềm dẻo hơn, để làm giảm đi những chết chóc vô ích, và
nhất là để bảo vệ cho những người Mỹ hiện còn tại miền Nam Việt Nam”.
Nước Pháp
cũng có một thái độ tương tự, vì hoàn toàn không nắm vững được tình hình và
cũng vì quyền lợi của chính nước Pháp. Đối với Hoa Kỳ, trên thế giới nầy tất cả
đều có thể bị mất hết, chỉ riêng có người công dân Mỹ, được coi như thần thánh,
là không thể mất được.
Các cấp chỉ huy quân sự của Ngũ Giác Đài cũng như các cấp quân nhân đã từng
tham chiến bên cạnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không đồng ý về những hành động
của Hoa Kỳ, vì tình cảm gắn bó với người chiến hữu Việt Nam cũng như gắn bó với
quốc gia nầy, giống như người Pháp chúng ta vậy. Họ có cố gắng thử giúp đỡ cho
Việt Nam một cái gì đó, nhưng người ta đã ngăn cấm họ. Họ chỉ còn có một cách
là càu nhàu, và sự hằn thù trong căm lặng nầy mãi mãi sẽ là một yếu tố của tình
trạng phân hóa tại Hoa Kỳ.
Bốn năm trước đó, dựa theo bản tuyên ngôn Guam của Tổng Thống
Nixon, Ngũ Giác Đài đã soạn thảo một quan niệm mới cho chiến lược ở Á Châu. Bây
giờ thì bắt buộc họ phải duyệt xét lại để giảm bớt khả năng tiềm lực quân sự của
Hoa Kỳ: đó là bỏ cả các căn cứ ở lục địa Á Châu và các quốc gia đồng minh “nhược
tiểu”, dùng Nhật Bản và Úc Châu như những pháo đài phòng thủ cho lục địa Hoa Kỳ
tại Thái Bình Dương. Dầu sao, theo họ nói, đó là một quyết định cấp quốc gia mà
họ là những người chịu trách nhiệm, không thể cưỡng lại được: “quân nhân chúng
tôi trước quyết định như vậy không thể làm gì hơn là phải thi hành, dù dư luận
Mỹ có cho rằng Hoa Kỳ không nên sửa đổi chiến lược như vậy.”
Hoa Kỳ đã không làm đúng lời hứa của họ. Họ đã phản bội những người mà chính họ
đã đưa vào cuộc chiến, một cuộc chiến mà họ chẳng những phải tốn quá nhiều đô
la mà còn phải hy sinh gần 60 ngàn quân nhân các cấp (chưa tính thương binh) để
chỉ đem về một “con số không” to tướng. Nói như thế có gì quá đáng lắm không?
Tướng Westmoreland, cựu chỉ huy trưởng lực lượng Mỹ tại Việt Nam thì phát biểu có phần nào nhẹ lời hơn cho Hoa Kỳ, nhưng cũng đã quy trách nặng nề cho giới chánh trị về hành động làm mất hết danh dự của Mỹ:
“Miền Nam Việt Nam phải chăng không thể tránh được một sự
chiến bại? Vâng, đúng như vậy. Nhưng chúng ta phải xét lại tình hình: Bắc Việt
đã vi phạm hoàn toàn Hiệp Định Paris 1973, Hoa Kỳ hoàn toàn bất lực trên phương
diện chánh trị, và các quốc gia có nhiệm vụ bảo đảm việc thi hành Hiệp Định thì
hoàn toàn im lặng không nhúc nhích.”
Người ta phải nhìn những cảnh cướp xe, hôi của, dọn sạch nhà
cửa, phòng ốc hay kho tàng của người Mỹ tại Sài Gòn, thì mới thật sự thấy được
mức độ thù ghét Hoa Kỳ của cả một dân tộc. Người ta phải nhìn cảnh ông Martin,
Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam lúc rời khỏi Việt Nam sau khi cho di tản xong xuôi
người Mỹ cuối cùng, thì mới thấy được cả một sự thẹn thùng nhục nhã của Hoa Kỳ
trên nét mặt xanh xao như người chết của ông. Và người ta cũng phải nhìn thấy cảnh
một người Việt Nam kéo lê bằng hai ngón tay lá cờ Mỹ to lớn của tòa Đại Sứ Mỹ để
dìm xuống rạch những “50 sao và 13 vạch” mà người Mỹ thường hãnh diện.
Tổng Thống Hoa Kỳ, Ông Ford, đã từng nói: “Chúng tôi không thể bỏ được những
người bạn của chúng tôi.”
Tác giả: Vanuxem, cựu Trung Tướng Quân Lực Pháp
Phỏng dịch: Cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa
***
Các cuốn băng ghi âm từ năm 1973 được giải mật cho thấy Tổng thống
Richard Nixon đã muốn đạt được thỏa thuận tại Hòa đàm Paris với Hà
Nội bằng mọi giá và gây sức ép rất lớn đối với Sài Gòn.
Một đoạn băng trong số 150 giờ thu âm và 30 nghìn trang tài liệu được
Thư viện Nixon công bố hôm thứ Ba vừa qua có lời của Tổng thống Nixon
nói với Cố vấn An ninh Henry A. Kissinger về Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu.
Nixon nói để bắt Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa ký
vào hòa đàm, ông sẵn sàng 'cắt đầu y nếu cần thiết' (cut off his head
if necessary).
Bài của Shaun Tandon trên AFP hôm 23 tháng 06 thì mô tả ông Nixon đã yêu
cầu ông Kissinger nói với Tổng thống Việt Nam Cộng hòa rằng Quốc hội
Mỹ sẽ cắt viện trợ nếu Sài Gòn không đồng ý với kết quả hòa đàm. Nhưng có vẻ như ông Nixon sẵn sàng làm mạnh hơn nếu lời đe dọa cắt
viện trợ không đạt mục đích.
Các đoạn băng cũng cho thấy một thứ ngôn ngữ rất
'Kissinger' mà Cố vấn An ninh của Tổng thống Hoa Kỳ dùng để nói về
đồng minh.
Ông Kissinger nói với Tổng thống về Ngoại trưởng Trần Văn Lắm của Nam
Việt Nam, người có mặt khi đó tại Paris để dự họp.
Dùng từ tục để gọi ông Lắm là 'an ass', ông Kissinger
nói ' Y cũng chẳng làm được gì cả đâu'.
Cũng chỉ tháng trước, ông Nixon đã tiếp Ngoại trưởng
Nam Việt Nam và hứa sẽ 'làm tất cả để giúp Nam Việt Nam' và 'nền
độc lập' của nước này.
Ông Nixon còn nói: 'Điều chính yếu là cần phải nhớ:
chúng tôi biết ai là những người bạn thực thụ'.
Nhà nghiên cứu về Nixon, ông Ken Hughes từ đại học
Virginia nói ông bị chấn động khi nghe đoạn ghi âm mà ông Nixon nói về
ông Thiệu.
Báo New York Times 23/06/2009 trích lời ông Hughes, người nghiên cứu các
băng ghi âm của nhiều tổng thống Mỹ, nói cuộc đàm thoại trên càng
làm ông tin tưởng vào quan điểm rằng cả ông Nixon, ông Thiệu và ông
Kissinger đều biết trước rằng cuộc ngưng bắn không thể duy trì nổi. Đó cũng chẳng phải là 'hòa bình trong danh dự' như ông Nixon mô tả,
mà chẳng qua chỉ là cách để Hoa Kỳ rút khỏi cuộc chiến mà 'không
mất mặt'.
Vẫn các báo Mỹ trích lời Ken Hughes tin rằng các
nhân vật trong cuộc biết rằng Bắc Việt Nam sẽ vi phạm thỏa thuận
ngưng bắn và tiến chiếm miền Nam.
Các đoạn băng được ghi bằng các microphone mật đặt
trong Phòng Bầu Dục từ tháng 1 đến tháng 2/1973.
Theo New York Times, các cuốn băng rọi thêm ánh sáng
vào một giai đoạn quan trọng trong lịch sử Mỹ, gồm cả lễ đăng quang
lần thứ nhì của Tổng thống Nixon, cuộc ngưng bắn tại Việt Nam, vụ
xử bảy người đột nhập vào trụ sở đảng Dân chủ tại khu nhà
Watergate.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét