"Cái chết của TT Diệm mang theo sự sụp đổ của chế độ Đệ I Cộng Hòa đồng thời tố cáo luôn bộ mặt thực của một số thư lại gia nhân. Chính họ đã góp công lật đổ, trước hết vẫn là một thảm kịch đó đã kéo dài trên một thế kỷ. Những viên đạn nổ vào đầu Ông Diệm chỉ là kết quả của bao nhiêu mâu thuẫn nội bộ của những ưu điểm và nhầm lẫn, của sự phân hóa trong hàng ngũ Quốc Gia, và đồng thời cũng là kết quả của cuộc hôn nhân miễn cưỡng giữa Mỹ và Việt xa hơn nữa là sự “thọc gây bánh xe” của Pháp và gần nữa là Cộng Sản. Đối với CS thì ông Diệm hay ai cũng thế thôi đều là kẻ thù của họ, nếu bản chất là quốc gia."
"Vấn đề chủ quyền quốc gia đối với TT Diệm đã trở thành đầu mối cho tấm thảm kịch Việt Mỹ. Nếu Hislman đặc trách Á Châu sự vụ có phận sự nghiên cứu những phương thức Mỹ nhằm tiêu diệt CS tại Việt Nam, thì song hành với công việc này Hislman cũng đã “sửa soạn” theo kỹ thuật của Mỹ để “hạ” một Tổng Thống cứng đầu như ông Ngô Đình Diệm. Lu Conein cũng như Smith và Hislman, Fishtel nghĩa là cả guồng máy CIA đã góp công vào sự sửa soạn này."
********
1 giờ 30, Sài Gòn ngái ngủ trong ánh nắng gay gắt. Từng loạt
súng nổ làm thức giấc dân Đô Thành. Tin đảo chánh lan truyền trong dư luận từ mấy
tháng nay bây giờ đã trở thành sự thực. Nhưng ai làm vụ này và rồi ra sao?
Trong một quán cóc vùng Cống Bà Xếp Lê Văn Duyệt, bốn chàng
thanh niên ngồi uống cà phê, nghe ngóng tình hình.
Chàng thứ hai: Chuyến này, anh em Quốc Gia có làm nên trò trống
gì không. Lúc này, đảo chánh là nguy hiểm.
Chàng thứ ba: Dù thế nào cũng phải duy trì ông Diệm ở vị trí
Quốc Trưởng.
Chàng thứ Tư: Đã dẹp là dẹp hết…phải làm mới lại hết, phải
thay đổi tất cả.
Bốn chàng thanh niên đều là cán bộ của VNQDĐ, một chàng nhà
văn mơ tưởng đến ngày huy hoàng của Cách Mạng. Một chàng tín đồ Phật giáo thuần
thành trong lòng vẫn còn mối cừu hận đêm 21-8 Cảnh Sát và Lực Lượng Đặc biệt tấn
công chùa. Còn hai chàng tín đồ Thiên Chúa Giáo. Họ đang bàng hoàng trước giờ
khởi điểm của một biến chuyển lịch sử.
Ai đây sẽ lãnh đạo quốc gia? Những khuôn mặt lớn nào xuất hiện?
Lúc ấy, dám chắc rằng không một ai có thể liệu Phó Tổng Thống Thơ sẽ làm “Cách
Mạng”. Nhưng cũng không ai ngạc nhiên thấy Trung Tướng Dương Văn Minh trở thành
Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng.
Hầu hết giới trẻ lúc ấy đều mơ ước Miền Nam có được một cuộc
Cách mạng thực sự trên nền tảng quốc gia dân tộc. Cho nên khi nghe tin Đảo
Chánh với một Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng thì không ai khỏi phấn khởi…
Bốn chàng thanh niên trên, thức gần trắng đêm nghe tin Cách
Mạng và nghe súng nổ từng giờ hồi hộp lo âu.
Sáng ngày 2-11-63 Saigon bốc bừng trong một khí thế vũ bão.
Đường phố đông nghẹt những người… Các Phật Tử đua nhau tiến về chùa Xá Lợi,
Giác Minh, Từ Quang để thăm hỏi tin tức các Thày…Thanh niên nam nữ lũ lượt kéo
nhau lên Dinh Gia Long và thành Cộng Hòa.
Thế là cáo chung một chế độ.
9 giờ 15, Đài Phát Thanh loan tin: “Anh em ông Diệm và ông
Nhu đã tự tử”.
Tại sao lại tự tử?
Hàng ngàn người nô nức kéo nhau ra đường như một ngày đại hội.
Thanh niên nam nữ trong niềm khát vọng thực, trong nhiệt tình chan hòa của
giòng máu nóng tuổi trẻ kéo đến kéo nhau từng lớp lớp về phía trung tâm thành
phố. Quân Cách mạng được nhiệt liệt hoan nghênh và được dân chúng tặng quà với
sự tán thưởng như các vị anh hùng của dân tộc.
Chàng thanh niên tên Thịnh, tên Tụy, tên Vĩnh không thể tin
anh em ông Diệm tự tử…Ba chàng thanh niên cúi đầu đọc cho hai ông một kinh Lạy
Cha cùng với lời nguyện cầu trong tâm tưởng…
Chàng thanh niên tên Trâm, tên Duyệt lòng tràn đầy phấn khởi
với bao nhiêu niềm tin vào Cách mạng. Đảng sẽ hồi sinh sau bao nhiêu năm thoi
thóp…Các anh sẽ làm tất cả, dựng lại Đảng tích cực dấn thân…
Từng đoàn thanh niên nam nữ hè nhau đi đập phá trụ sở Việt Tấn
Xã và 9 tờ báo được coi là thân chính quyền. 26 trụ sở các hội đoàn được coi là
của chính quyền cũng bị đập phá tan hoang.
Tướng Dương Văn Minh trở nên một thần tượng mới. Tướng Đôn,
Đính được suy tôn như các vị anh hùng lỗi lạc.
Tư thất của một số nhân vật thuộc chế độ cũ cũng bị đám đông
kéo đến đập phá. Thiệt hại nặng nề là tư thất của các ông Ngô Trọng Hiếu, Cao
Xuân Vỹ. Đám đông nam nữ reo hò vang dậy. SV Thịnh hồi tưởng lại khí thế trong
những ngày đầu Cách Mạng anh cho rằng, “Quả thực đã có một giờ Cách Mạng, một
ngày Cách Mạng trào dâng trong nhiệt huyết tuổi trẻ và nhiều tầng lớp dân
chúng…Khí thế lúc ấy như vũ bão…” Đám đông sinh viên học sinh tràn vào trụ sở
phong trào Phụ Nữ Liên Đới đập phá tan hoang và tinh thần lên cao.
Chế độ Ngô Đình Diệm cáo chung trước hết là do kết quả của
những chùm mâu thuẫn nội bộ và sự góp công lật đổ chế độ của một số viên chức
thư lại chỉ biết cúi đầu thi hành, không một sáng kiến mới và xây dựng chế độ.
ANH ĐI ĐƯỜNG ANH TÔI ĐI ĐƯỜNG TÔI
TT Diệm và Đại sứ Cabot Lodge |
Sự xuất hiện của Tướng Khánh trên chính trường VN cùng với sự
ủng hộ tích cực của Mỹ qua vai trò của Cabot Lodge đến hai ông Minh, Thơ là một
đôi bạn tâm giao, thân thiết. Ông Thơ ông Minh cũng như tấm tình thân thiết đối
với ông Ngô Trọng Hiếu và ông Huỳnh Hữu Nghĩa. Khi đảo chánh thành công thì tứ
tài tử chia làm hai ngả: Ông Hiếu và ông Nghĩa rủ nhau vào khám Chí Hòa. Ông
Thơ và ông Minh lên đến hàng tột đỉnh “công danh“. Tại sao lại như vậy? Một lớp
người từng lương cao bổng hậu của chế độ cũ song một phần thì nối tiếp nhau đi
vào khám Chí Hòa, hay nếu không cũng bị vong gia bại sản. Còn một phần khác nối
đuôi nhau tiến lên theo ngọn triều Cách Mạng, chẳng qua đó cũng chỉ là bức
tranh “vân cẩu” muôn đời của thế sự.
Những lý do nào khiến cho đôi bạn Thơ, Hiếu trong phút chốc
kẻ được cách mạng hậu trọng như một vị “bán anh hùng” còn người thì bị lên án
như một “hung thần” tay sai của vợ chồng ông Nhu.
Trước năm 1954, khi ông Thơ còn làm Tỉnh Trưởng Long Xuyên,
thì ông Hiếu làm Trưởng Ty Ngân Khố và hai người trở thành bạn tri giao thân
thiết. Ngoài Tướng Minh với ông Hiếu, ông Thơ còn một người bạn tâm giao khác
là ông Huỳnh Hữu Nghĩa nguyên Bộ Trưởng Lao Động.
Phút chốc thế sự thay đổi, anh đi đường anh tôi đi đường
tôi…ông Ngô Trọng Hiếu sau khi ra tù, ngày nay ở trong một căn nhà bình dân
trong xóm Thị Nghè, sáng chiều leo lên chiếc vecspa cũ chỉ để đi dạy học, vào lớp
nói tiếng Tây thả dàn ngâm Kiều, học Chinh Phụ Ngâm. Đêm đêm nằm tay vắt trán
mà suy ngẫm trò đời. Cựu phó Tổng Thống Thơ từ ngày “thôi làm” Thủ Tướng lui về
vui thú trong cảnh toại hưởng kỳ thanh lâu lâu đi Pháp một chuyến đi Nhật một
chuyến…Và mới được Nhật tặng huy chương (1968).
Sự thực đối với chế độ cũ, Phó TT Thơ đã có công với rất nhiều
người. Nhờ sự đề bạt của phó TT Thơ mà nhiều người có lương cao bổng hậu, áo
mão xênh sang. Trong số người này có cả Tướng Tá, tổng bộ trưởng. Chính ông Ngô
Trọng Hiếu cũng là người bạn chí tình của ông Thơ và được ông Thơ đề bạt lên TT
Diệm (Chính phủ Ngô Đình Diệm thành lập ngày 7-7-1054, ông Nguyễn Ngọc Thơ đã đề
nghị cho ông Ngô Trọng Hiếu làm Tổng Trưởng Thông Tin nhưng sau đó có sự trục
trặc nên ông Bùi Kiên Tín giữ chức vụ này). Chính ông Thơ đã giới thiệu và vận
động để ông Hiếu đi làm đại diện Chính phủ tại Cambodge (hàng Đặc Sứ).
Sau này đôi bạn Hiếu Thơ trở thành xa lạ nhau trước hết chỉ
vì nguyên nhân: Ông Hiếu bị coi là người thân tín của ông Ngô Đình Nhu, còn ông
Thơ lại được TT Diệm không những kính nể mà còn coi nhau như tình anh em. Ông
Nguyễn Ngọc Thơ rất kiêng kỵ những ai được coi là “người” của ông Nhu.
Tại sao như vậy? Báo chí ngoại quốc nói rằng Tướng Big Minh
bị ông Nhu ganh ghét và loại trừ.
Điều đó có đúng không?
Ông Cố Vấn Nhu đã nghĩ về Tướng Big Minh như thế nào? Nhất
là vai trò của Phó TT Thơ ra sao trong 9 năm của chế độ cũ và 3 tháng sau đảo
chánh? Trong chương này xin nói lại cho rõ mà không nhắm tô hồng hay bôi đen
ai.
MỘNG CÔNG HẦU
Sau ngày 1-11-1963, Một số đông chính khách đã có bụng mừng
thầm là phen này thế nào họ cũng được Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng chiếu cố. Cụ
thể hơn hết là cố làm sao vận động cho mình và phe đảng mình được tướng lãnh và
các “Thầy” đề bạt vào ghế nào đó trong chính phủ Cách Mạng, mà do Tướng Dương
Văn Minh đang thăm dò để chọn một số vị “lương đống quốc gia” chèo lái con thuyền
VN trong một giai đoạn mới.
Trong 2 ngày 2 và 3 tháng 11 Tướng Minh rất bận rộn và phải
dành nhiều thì giờ tiếp xúc với một số chính khách có tên tuổi.
Những người sau đây được coi là có nhiều hy vọng được chỉ định
làm Thủ Tướng Chính Phủ: Quý ông Trần Văn Văn, Phan Huy Quát, Vũ Văn Mẫu, Trần
Văn Hương, Nguyễn Ngọc Thơ…Ai cũng tưởng Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng sẽ không
bao giờ đề cử cựu Phó TT Thơ làm thủ tướng vì như vậy “khó coi” nếu xét về tình
cảm và “không thể được” nếu xét về cái lý.
Song như lịch sử đã diễn biến, cuối cùng chỉ có ông Nguyễn
Ngọc Thơ được Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng lựa chọn. Nói là Hội Đồng Quân Nhân
Cách Mạng lựa chọn chỉ là cách nói theo nguyên tắc và trên văn từ. Thực tế
không phải như vậy.
BÀN TAY PHÙ THỦY
Trước khi Đại Sứ Cabot Lodge thừa lệnh Hoa Thịnh Đốn cho bật
đèn xanh vào giờ H dể các tướng lãnh bắt tay vào đại sự thì cũng vào lúc đó, trục
liên lạc Hoa Thịnh Đốn-Saigon bắt đầu hoạt động từng giờ từng phút. Công việc đảo
chánh đã trở thành “thứ yếu”.
Điều quan hệ nhất đối với Hoa Thịnh Đốn là tìm được
người thừa kế chính phủ Ngô Đình Diệm cho hợp tình hợp lý. Cái tình ở đây phải
hiểu là hợp “hảo ý” của giới chức Mỹ, phải được lòng “các thầy” trong hàng ngũ
lãnh đạo Phật giáo và đồng thời có thể làm cho đồng bào Thiên Chúa Giáo được an
tâm. Ông Lodge vốn là một tay “cao thủ” trong ngành ngoại giao Mỹ và từ lâu bị
nghi ngờ có những hoạt động riêng cho cơ quan CIA.
Tuy vậy, ông ta luôn luôn tỏ ra tôn trọng những nguyên tắc
ngoại giao. Từ sáng ngày 2-11 ông Lodge đã tiếp xúc rộng rãi với ngoại giao
đoàn nhất là mấy vị đại sứ mà ông Lodge quan tâm nhất đó là các đại sứ Anh, đại
sứ Nhật sau nữa là Tòa Khâm Sứ đại diện cho toàn thánh Vatican tại Quốc Gia VN.
Dĩ nhiên là tòa khâm sứ đã hoàn toàn dè dặt và chỉ cư xử với ông Lodge theo mức
độ ngoại giao bình thường.
Lúc đầu đã có một vài ứng viên được giới chức Mỹ lưu tâm và
dùng làm trái ballon nhỏ để thăm dò. Đó là Giáo Sư Vũ Văn Mẫu, cựu Ngoại Trưởng
của Tổng Thống Diệm, một vài người Mỹ thuộc phòng chính trị tòa Đại Sứ Hoa Kỳ
cho rằng, ông Mẫu vừa có tiếng trong giới ngoại giao, vừa có thành tích đối với
Phật Giáo nhân vụ giáo sư Mẫu “xuống tóc” và qua Ấn Độ hành hương để gọi là phản
đối chính phủ về vụ Phật Giáo. Ông Mẫu lại là một luật gia tên tuổi khéo léo mềm
mỏng. Tuy vậy, một vài giới Mỹ không hài lòng vì một điểm duy nhất vì GS Mẫu là
người Bắc Việt di cư. Lập trường của ông Mẫu lại không rõ rệt, ông không được
lòng tin cậy của Phật giáo như các nhà “lãnh đạo mới” đồng thời một số người
khác lại coi Giáo Sư Mẫu như một người có trách nhiệm về sự ám sát tinh thần
(Assasitnat Moral) đối với chế độ của TT Diệm. Theo giới am tường chính sự tại
HĐQNCM thì ngay các tướng lãnh cũng “lờ mờ” không ai biết ai sẽ được chỉ định
làm tân Thủ Tướng và nhiều vị tướng trong HĐ cho đến phút chót mới biết tin ông
Thơ được chỉ định.
Trọn ngày 3-11-1963, giới chức Mỹ vẫn chưa dứt khoát trong
việc “khuyến cáo” Tướng Minh chỉ định.
Ngoại Trưởng Dean Rusk cũng như Thứ Trưởng Harriman dĩ nhiên
trong cương vị của họ không thể bày tỏ ý định nào. Nhưng qua những cuộc đàm đạo
với ĐS Lodge một số chính khách Việt Nam cũng đã hiểu được rằng, người Mỹ muốn
một thủ tướng thuộc type “ôn hòa trung dung” được hiểu theo cái nghĩa thư lại
bàn giấy. Khuynh hướng Thượng Tọa Trí Quang vẫn còn xa lạ với GS Mẫu.
Giới chức Mỹ muốn được tiếp tục đều đặn như không có chuyện
gì xảy ra nghĩa là ông Diệm chết là chuyện riêng còn chế độ của ông thì vẫn cần
duy trì miễn sao thuận tình cảnh mới. Sau này, người ta cho rằng, Đs Lodge bị
Phật Giáo cho vào mê hồn trận và xỏ mũi và đồng thời Mỹ cũng như HĐQNCM đã bị
chi phối bởi áp lực rất mạnh mẽ của phía Phật Giáo. Sự thực như thế này: HĐQNCM
có thể chịu sự chi phối mạnh mẽ như vậy, song ông Đại Sứ Lodge thì không.
Cái vẻ bề ngoài thì Đại Sứ Lodge nghiêng hẳn về phía Phật
Giáo của các Thượng Tọa Tâm Châu và Trí Quang. Nhưng trong đường hướng mới của
Mỹ. Ông Lodge đã “lựa chọn” phía Phật Giáo Nam Việt (Mai Thọ Truyền).
Vì giản dị, Phật Giáo Nam Việt trong quá khứ được coi là hiền
hòa, không có những tham vọng chính trị là một tập thể tương đối thuần thành về
phương diện tôn giáo. Hơn nữa phía Phật Giáo Nam Việt sau 1-11-1963 đã tỏ ra dè
dặt, hay đúng hơn, tách khỏi các thầy Tâm Châu và Trí Quang.
Trong một chiến thuật giai đoạn thì Đại Sứ Lodge phải đi với
phe Phật Giáo của các Thượng Tọa Tâm Châu và Trí Quang. Trong một chiến lược và
từ cục bộ đến toàn bộ, thì ông Lodge không thể xử dụng người của khối này trong
tư thế thủ tướng chính phủ vì đây được coi là khởi điểm của lộ trình mới. Do lẽ
đó, ông Lodge đã khuyến cáo Tướng Minh nên tìm người này người nọ. Ông Lodge rất
khôn khéo không chỉ rõ đích danh ai nhưng với một số tiêu chuẩn nào đó Tướng
Minh có thể tìm ngay được vị Thủ Tướng hợp ý với ông lại hợp ý đại sứ Mỹ.
TUỒNG MỚI KÉP CŨ
Người đó như lịch sử đã ghi: Theo Hiến Ước tạm thời số 1; Tướng
Minh với tư cách Quốc Trưởng đã chỉ định ông Nguyễn Ngọc Thơ thành lập chính phủ:
Sắc lệnh lại do chính ông Nguyễn Ngọc Thơ ấn ký. Thành phần gồm 14 Tổng Bộ Trưởng
chia ra 4 sắc thái rõ rệt:
1- Chuyên viên Kỹ Sư Trần Ngọc Oánh, Phạm Hoàng Hồ.
2- Chính trị gia “không ưa” chế độ cũ (nhưng lại có ít nhiều
liên lạc bí mật) là GS Âu Trường Thanh.
3- Tướng lãnh gồm 3 vị được coi là thân cận của Tướng Minh.
4- Còn lại là các vị thuộc chế độ cũ từng là then chốt trong
guồng máy của chế độ đó (từng là Tổng Thơ Ký Phủ Tổng Thống như ông Nguyễn
Thành Cung đến Kỹ Sư Trần Lê Quang là một chuyên viên được TT Diệm thương yêu
và coi như người trong nhà).
Một vài vị khác được coi là chế độ cũ nếu hiểu như một công
chức và quân nhân của mọi triều đại). Những Tổng Bộ Trưởng đều là người của chế
độ cũ tuy được “Cách Mạng” xài tạm song trước hết phải là người của ông Thơ nếu
không thì cũng không bị ông Thơ ghét hay bị nghi ngờ là người của ông Nhu. Ông
Thơ có thể chấp nhận một cách vui vẻ nếu cộng sự viên là “con cái” của TT Diệm
song ông sẽ quay mặt đi và coi như kẻ đáng ghét nhất nếu ai đến với ông mà trước
đây lại từng được ông Nhu tin cẩn trọng dụng. Đó cũng là đầu mối của tấm thảm kịch
“chế độ Ngô Đình Diệm“.
Việc chỉ định ông Nguyễn Ngọc Thơ được làm Thủ Tướng mặc dầu
người Mỹ đã lượng tính trước sự bất hợp tác của khối Phật Giáo và đảng phái nhất
là ông Thơ lại không thể tìm được cảm tình đối với đa số Phật tử Hòa Hảo… Tất
nhiên là Cao Đài cũng không ủng hộ. Biết như thế người Mỹ vẫn tiến hành và tích
cực khuyến cáo Tướng Minh. Bởi vì giản dị là người Mỹ có sẵn một giải pháp mà
ông Lodge đang bỏ túi. Tạm thời trong lúc chuyển tiếp phải có ông Thơ (cũng như
khi “giải pháp” ấy được ném ra tức là lúc Tướng Nguyễn Khánh được đem lên diễn
đài thì ông Lodge vẫn phải khuyến cáo tích cực để Tướng Minh đóng vai trò “tạm
thời trong lúc chuyển tiếp”.
CHẾ ĐỘ DIỆM KHÔNG DIỆM
Dù không được lòng ai, dù bị mang tiếng đã làm sống lại một
chế độ “Diệm không Diệm” song sự lựa chọn ông Thơ có nhiều cái hợp lý :
1) Ông Thơ là bạn tri kỷ của Tướng Minh.
2) Ông Thơ đã quen việc trong suốt 9 năm của chế độ cũ.
3) Ông Thơ trước sau vẫn là đốc phủ sứ với tất cả cái nghĩa
của giới này trước năm 1945. Ông Thơ dầu sao vẫn là một địa chủ nên người Mỹ có
đủ yếu tố để tin tưởng vào lập trường địa chủ của ông.
4) Ông Thơ tuy làm quan lại thời Pháp nguyên Bí Thư Toàn Quyền
Decoux nhưng ông Thơ không phải là mẫu người được Pháp đào tạo, từ truyền thống
văn hóa Pháp như ông Ngô Đình Nhu hay Kỹ Sư Trần Văn Văn v.v… Điều mà người Mỹ
rất ngại.
Có một dư luận trong chính giới thân Mỹ lúc ấy là: Nếu không
có sự thảm sát anh em TT Diệm thì Đại Sứ Trần Văn Chương đã trở về nước và ông
có nhiều hy vọng làm thủ tướng. Song vì con rể ông bị thảm sát, một nhạc gia tất
nhiên không thể làm như vậy (đây chỉ là một dư luận được tung ra để thăm dò vào
lúc ấy). “Cũng nên ghi thêm, ngày 28-10-1963 nguyên Đại Sứ Trần Văn Chương đã
lên tiếng công kích nặng nề chế độ TT Diệm và con rể ông”.
Kể từ ngày 4-11 phe các Tướng Minh, Đôn, Kim, Xuân, Đính trở
thành ngũ hổ song sự phân hóa trong HĐQNCM càng trở nên rõ rệt mỗi bên đều đề
cao cảnh giác.
Một số đơn vị tham dự đảo chánh được điều động ra khỏi đô
thành. Một số sĩ quan cấp tá như Phạm Ngọc Thảo bị theo dõi sát nút (Đại Tá Đỗ
Mậu được thăng thiếu tướng nhưng vô quyền sau được bổ nhiệm Tổng Lãnh Sự Việt
Nam tại Hong Kong).
Tuy mấy tướng lãnh như Xuân, Đôn, Đính, Kim…đang có thực quyền
sinh sát trong sự “hiện diện” của một vài tướng lãnh cũng như sự xuất hiện của
cựu Trung Tá Trần Đình Lan đã làm cho giới chức Mỹ không hài lòng. Người Mỹ
không những “kỵ” văn hóa Pháp mà “kỵ” cả nhưng ai bị nghi ngờ “người của Pháp”.
Như thế, ta cũng hiểu được rằng, trong lúc mà Mỹ tin tưởng sẽ chiến thắng Cộng
Sản bằng con đường và cách thức của Mỹ thì ở đây, Mỹ có thể chấp nhận CS nằm
vùng (nếu sự nằm vùng có lợi về phía Mỹ) song không thể chấp nhận sự hiện diện
và thao túng của Phòng Nhì cũng như các tay phản gián Pháp.
Đó cũng là lý do khiến Trần Đình Lan cũng như Vương Văn Đông
phải cuốn gói ra đi mặc dù hai người này đã có thành tích “diệt Cộng” khét tiếng
trước năm 1954. (Thực ra thì cơ quan CIA Mỹ cũng biết rõ rằng, Trần Đình Lan
hay Vương Văn Đông sẽ không làm nên trò trống gì nhưng họ lại dùng hai sĩ quan
thân Pháp này như một bằng chứng cho “hồ sơ” được gọi là Trung Lập của bộ ba
Minh, Kim, Xuân và bằng chứng đó là một phần “luận cứ” để biện minh cho cuộc chỉnh
lý của tướng Khánh).
BÀN TAY MÓC NỐI
Khi Phó Tổng Thống Thơ được chỉ định thành lập Chính Phủ đồng
thời các đảng phái, Phật Giáo cũng tiêu tan hy vọng mà họ vẫn thường hướng về
HĐQNCM coi như đấy là nơi sẽ có nhiều phép lạ xây dựng cơ đồ cho đất nước.
Thủ Tướng Thơ trả lời báo chí dạo đó là thủ tướng đã có ý định
từ chức Phó TT từ dạo tháng 9 tháng 10… nhưng Trung Tướng Dương Văn Minh cản
ngăn (?) vì sợ hỏng chuyện. Thủ Tướng Thơ cũng cho biết ông có biết về những kế
hoạch lật đổ TT Diệm. Sau này một vài người bạn thân của ông Thơ cho rằng, đó
chỉ là cách ông Thơ biện minh cho sự hiện diện của ông khi được “cách mạng” trọng
dụng. Sự thực, trước ngày 1-11-1963 kể cả bạn bè thân cận của Phó TT Thơ chưa
bao giờ thấy ông ngỏ ý từ chức Phó Tổng Thống, ông Thơ chỉ thực sự bị từ chức
Phó Tổng Thống khi cuộc đảo chánh thành công.
Vai trò của ông Thơ đã liên hệ như thế nào đối với TT Diệm
và Trung Tướng Minh sau này? Trước hết, Tướng Minh khi còn là trung tá đã được
ông Nguyễn Ngọc Thơ đề bạt lên TT Ngô Đình Diệm (1954) và cũng nhờ sự đề bạt của
ông Thơ nên TT Diệm đã một thời hoàn toàn tin cậy tướng Minh.
Như đoạn viết đã viết trên, Phó TT Thơ là bạn tâm giao với
Tướng Dương Văn Minh và hai ông Hiếu và Nghĩa.
Khi TT Diệm còn hoạt động ở trong bóng tối, ông Huỳnh Hữu
Nghĩa được coi là một cán bộ giao liên tin cẩn. Chính ông Nghĩa đã có công “móc
nối” giữa anh em TT Diệm và Trung Tướng Trịnh Minh Thế. Đồng thời TT Ngô Đình
Diệm quen biết Phó TT Thơ cũng do sự móc nối của ông Nghĩa. Rồi Phó TT Thơ lại
là người móc nối Trung Tá Dương Văn Minh (1954) với TT Diệm. Đó cũng là cái “vòng
vo thân hữu” nhiều khi không cần tài cho lắm, song nếu có anh em đưa đẩy đề bạt
thì vấn đề tạo lập công danh kể như truyện đi du ngoạn lại trúng số “cá cặp”
ĐỊA PHƯƠNG
Khi ông Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh, có hai vấn đề mà
TT Diệm quan tâm bậc nhất về phương diện nội bộ:
1) Yếu tố nhân sự và vấn đề nhân sự miền Nam.
2) Thành phần lãnh đạo trong quân đội. Ông Ngô Đình Nhu mấy
năm đầu vẫn quan niệm dứt khoát rằng, Bắc, Nam, Trung không thành vấn đề. Điều
quan trọng là họ có làm được không? Song TT Diệm tế nhị hơn ông em điều này: “Phải
dùng người sinh quán tại miền Nam ít nhất cũng phải theo một tỷ lệ tương đối so
với dân số Nam phần”. Cũng bởi lý do đó ngay từ buổi đầu, ông Nguyễn Ngọc Thơ
đã được TT Diệm lưu tâm đặc biệt. Ông Thơ lại có một quá khứ “hành chánh” hợp
nhãn giới TT Diệm vì ông Thơ là một đốc phủ sứ.
Theo quan niệm của TT Diệm thì đó là một giới “biết việc”
cho nên không phải chỉ riêng một ĐPS Nguyễn Ngọc Thơ được trọng dụng mà nhiều
ĐPS khác đã được TT Diệm đặc biệt cất nhắc như trường hợp Đốc Phủ Sứ Hải, Đốc
Phủ Sứ Công.
TT Ngô Đình Diệm lại dùng ông Thơ như một tâm điểm để móc nối
với hàng ngũ quan lại và địa chủ tại miền Nam. Trong 2 năm đầu 1954-1956 ông
Thơ đã thành công trong nhiệm vụ này. Uy tín của ông đối với TT Diệm càng ngày
càng vững chắc, nhất là ông Thơ được coi như người có công lớn trong vụ tướng
Hòa Hảo Ba Cụt, cùng các vụ giàn xếp với mấy nhóm Hòa Hảo khác (Nhóm Hòa Hảo Trần
Văn Soái tự Năm Lửa, Lâm Thành Nguyên Nguyễn Giác Ngộ).
Trong chế độ NĐD có hai
người được TT Diệm kính nể đó là Ngoại Trưởng Vũ Văn Mẫu và Phó TT Nguyễn Ngọc
Thơ. Riêng ông Thơ, TT Diệm thường nói với Phó TT Thơ đại khái: “Ngài thấy thế
nào? Ngài đi dùm tôi việc này” Trong những lúc không có mặt ông Thơ. Ông Diệm vẫn
thường “một tiếng Phó TT hai tiếng Phó TT. Cụ Phó như thế, ngài như vậy”. Rất
ít khi TT Diệm gọi ông Thơ bằng “ông”. Về phía quân đội, khi về nước chấp
chánh, TT Diệm coi như “trắng tay” không có một tên quân, không có một tên tướng
tá nào được coi là “người của mình”.
Trong lúc hoàn toàn thiếu cán bộ quân sự
tin cẩn, ông Nguyễn Ngọc Thơ đã đề bạt Trung Tá Dương Văn Minh. Tất nhiên là TT
Diệm rất hoan hỉ chấp nhận. Trong đó Trung Tá Minh được coi là sĩ quan cấp tá
được TT Diệm yêu mến tin cẩn nhất. Trung Tá Minh lần lượt được trao phó các chức
vụ quan trọng như Tư Lệnh chiến dịch Rừng Sát và chiến dịch bình định tại miền
Tây. TT Diệm vẫn coi tướng Minh là một thứ “homme de bataille”…Sau vụ chiến thắng
Rừng Sát, Đại Tá Minh dẫn đầu đoàn quân tiến về thủ đô đi trên đại lộ Catinat rồi
về Dinh Độc Lập…. trước bao nhiêu tiếng hoan hô vang dậy. Báo chí của nhà nước
lại được dịp thổi phồng, tán dương rất bay bướm. TT Ngô Đình Diệm sáng hôm ấy
đã sẵn sàng ở thềm Dinh Độc Lập để đón mừng “Người anh hùng Rừng Sát“… Sau này
TT Diệm vinh thăng Đại Tá Minh lên Thiếu Tướng.
TƯỚNG KHÔNG QUÂN
Tướng Dương Văn Minh |
Xét về hai con người, một Phó TT Thơ và một Tướng Dương Văn
Minh thì Tướng Minh được TT Diệm trọng hậu ngay từ buổi ban đầu và nổi bật một
cách dễ dàng. Ông trở thành ngôi sao sáng trong hàng tướng tá kể từ đầu năm
1955. Ông Thơ phải đợi đến năm 1956 mới được bổ nhậm Phó Tổng Thống, mặc dầu
ông đã tham gia chính phủ đầu tiên của TT Diệm với tư cách Bộ Trưởng Nội Vụ
(7-7-1954) Song vai trò còn lu mờ và chỉ như một viên chức phụ tá Thủ Tướng.
Tướng
Minh càng ngày càng được TT Diệm tín nhiệm và yêu mến nhờ hội được mấy điều kiện
mà TT Diệm cho là xứng đáng theo hai tiêu chuẩn :
1) Tướng Minh có vóc dáng một Tướng lãnh đàng hoàng.
2) Tướng Minh không có những vụ lem nhem vì “vợ nọ con kia
hay bài bạc”. Hơn nữa, do sự kính mến Phó TT Thơ nên TT Diệm cũng mến tướng
Minh.
Khi thành lập Bộ Tư Lệnh Hành Quân, Tướng Minh được chỉ định
là Tư Lệnh , lúc ấy ông đã đeo lon ba sao và nguyên là Tư Lệnh Quân Khu Thủ Đô.
Giới thân cận của TT Diệm cho rằng TT Diệm đặc biệt lưu tâm đến Bộ Tư Lệnh Hành
Quân và đề cử Tướng Minh. TT Diệm coi như là một tín nhiệm đặc biệt. Ông Diệm rất
mù mờ về lãnh vực quân sự. Hai tiếng Hành Quân đối với ông là cả một sự trọng đại.
Khi chỉ định Tướng Minh, TT Diệm đã cho rằng chỉ có Tướng Minh mới xứng đáng vì
TT vẫn cho rằng Tướng Minh là một homme de bataille.
Tuy vậy, Tướng Minh lại không mấy ham chức vụ “không quân”
này.
Tướng Minh thường tỏ ra không hảo ý với vị Trung Tướng Tư Lệnh
Quân Khu Thủ Đô (trước ngày 11-11-1960). Tướng Minh vẫn phê bình công khai là
ông Trung Tướng này “nhẩy dù-đi tắt“…
Trước vụ 11-11-1960, chế độ cũ không hề thắc mắc đến Tướng
Minh vì coi ông là người thân tín của “ông cụ”. Nhưng sau ngày 11-11-60 vì Tướng
Minh tuyên bố đứng trung lập giữa chính quyền và phe đảo chánh (báo Journal
Extrême Orient 13-11-1960) rồi lại có báo cáo là trước ngày đảo chánh Tướng Đôn
có vào Saigon và gặp Tướng Minh cũng như Tướng Kim ở ngay Bộ Tư Lệnh Hành Quân.
Đó cũng là lý do làm cho Tướng Minh bị xa dần chế độ.
TỚI LUI ĐÚNG LÚC
Ông Nguyễn Ngọc Thơ đã có một hành động hết sức đẹp trong dịp
cải tổ chánh phủ ngày 24-9-54 (với sự tham gia rộng rãi của các giáo phái Cao
Đài, Hòa Hảo) hành động đó như sau:
Ông Thơ nguyên tỉnh trưởng Long Xuyên vốn
là khu vực được coi như là lãnh thổ của Hòa Hảo, giáo phái này từ lâu tỏ ra “thiếu
thân thiện” nếu không nói hiềm khích đối với ông Thơ. Sau khi trở thành Bộ Trưởng
Nội Vụ của chính phủ Ngô Đình Diệm, ông Thơ lại càng bị Hòa Hảo nghi ngờ. Trong
lần cải tổ chánh phủ vào tháng 9 kể trên, phe Hòa Hảo Trần Văn Soái “lên tiếng”
với ông Ngô Đình Nhu rằng họ chỉ tham gia chính phủ với điều kiện này điều kiện
kia trong đó có một điều kiện không chấp nhận sự có mặt của ông Thơ trong thành
phần nội các mới.
TT Ngô Đình Diệm phản đối với lý do, từ ngày ông Thơ lên làm
Bộ Trưởng Nội Vụ cho đến lúc ấy, ông Thơ chưa có một lầm lỗi nào trái lại ông
đã làm việc một cách tận tâm đắc lực. TT Diệm nhất quyết không nhượng bộ phe Trần
Văn Soái về điểm này. Khi hai bên chính phủ và Hòa Hảo còn đang “marchander”
ông Thơ biết việc này, chính ông nói với TT Diệm xin tự ý rút lui để TT Diệm xử
trí với phe Hòa Hảo.
Vì biết phe Hòa Hảo coi ông Thơ như kẻ thù, TT Diệm tìm cách
để ông “vắng mặt” một thời gian, đó cũng là ý muốn của ông. Vì vậy, ông Thơ được
bổ nhiệm làm Đại Sứ Việt Nam tại Nhật Bản. Vào tháng 4-1955 sau khi chính phủ
Liên Hiệp Quốc Gia tan vỡ, Trần Văn Soái, Lương Trọng Tường từ chức…. Hòa Hảo
chống lại chính phủ Ngô Đình Diệm và miền Tây mịt mờ khói lửa, ông Đại Sứ Nguyễn
Ngọc Thơ được gọi về nước, vẫn giữ nguyên chức vụ Đại Sứ song ông được Tổng Thống
Diệm trao phó cho nhiệm vụ đặc biệt giải quyết tất cả các vấn đề chính trị tại
miền Tây. Ông Thơ được coi là đại diện Thủ Tướng Chính Phủ trong việc kiểm soát
chiến dịch bình định và thu xếp vụ Hòa Hảo.
Sau khi vụ Hòa Hảo được coi như thanh toán xong, ông Thơ lại
trở qua Nhật. Đó cũng là ý muốn của ông.
Thực ra ông Thơ muốn tự mình “làm mờ” vai trò của mình trong
vụ Hòa Hảo nhất là vụ bắt tướng Hòa Hảo Lê Quang Vinh mà ông Thơ là người có
trách nhiệm. Ông trở qua Nhật là vì vậy mặc dù Thủ Tướng Diệm có ý giữ ông ở lại
nước nhận một chức vụ quan trọng hơn.
NGÀY TRỞ VỀ
Tướng Hòa Hảo Trần Văn Soái |
Tháng 3-1956, Tướng Hòa Hảo Trần Văn Soái trở lại hợp tác với
chính phủ, Tướng Dương Văn Minh họp báo nói về trường hợp qui thuận của Tướng
Soái, chiến dịch miền Tây được coi như kết thúc. Tương Minh cho biết, chiến dịch
Hoàng Diệu đã tịch thu được 20 ký vàng 16 triệu 1/2 bạc mặt số tiền này ông đem
nộp cho chính phủ và dùng xây cất một Cô Nhi Viện Quốc Gia. Đồng thời 5656 sĩ
quan và binh sĩ Hòa Hảo đã về hợp tác với chính phủ trong một buổi lễ tại Cái Vồn
(8-3-56). Vấn đề Hòa Hảo miền Tây coi như xong. Ông Nguyễn Ngọc Thơ lúc ấy mới
công khai tham chánh và được bổ nhiệm Bộ Trưởng Kinh Tế thay thế Bộ Trưởng Trần
Văn Mẹo (16-5-1956).
Tuy hai ông Diệm Nhu muốn ông Thơ nắm Bộ Nội Vụ vì TT Diệm
coi đó là sở trường của ông Thơ nhưng ông Thơ không nhận và ông chỉ thích Bộ
Kinh Tế, ông Thơ chính thức trở thành người của chế độ. Trong buổi tiếp tân vào
tối ngày 26-10-1955- Quốc Khánh đầu tiên của Đệ Nhất Cộng Hòa, ông Thơ xuất hiện
bên cạnh TT Diệm với tư cách Phó Tổng Thống. Buổi tiếp tân hôm ấy, trong bộ
nhung phục mới của cấp tướng, Thiếu Tướng Minh được mọi người chú ý đặc biệt vì
ông đã trở thành “con cưng” của chế độ và đang được Tổng Thống thương yêu. Bạn
bè của PTT cũng lên vù vù từ đó.
NỖI BUỒN NHO NHỎ
Vì không mấy khi được ông Nhu tham khảo về chính sự, Phó TT
Thơ mỗi ngày càng xa cách ông cố vấn với mặc cảm rằng, ông Nhu chỉ là một Cố Vấn.
Đối với công quyền ông không có “ký lô” nào vì ông cố vấn không phải là một “titre
officiel”. Phó TT mới là nhân vật số 2. Do đó ông phải hơn ông Nhu và sẽ không
cần biết ông Nhu, chỉ cần biết Tổng Thống. Tuy vậy, mỗi lần gặp ông Nhu, PTT
Thơ vẫn mềm mỏng, khôn khéo và tỏ ra rụt rè. Tuy bên trong, có lẽ, Phó TT Thơ
không được hài lòng do một số những bất mãn nào đó, có khi chỉ là chuyện rất tầm
thường.
Đỗ Kiến Nhiễu |
Thí dụ như vụ Thiếu Tá Đỗ Kiến Nhiễu, Tỉnh Trưởng Long Xuyên
(1957). Thiếu Tá Nhiễu được coi là người thân của gia đình phó TT Thơ và ông
Thơ đề bạt cho về làm tỉnh trưởng nơi quê hương của ông. Ông Nhiễu làm tỉnh trưởng
tỉnh này khá lâu. Sau vì một vụ “sì căng đan tình ái” ông Nhiễu bị mất chức. Vì
sì căng đan này đã làm sôi nổi dư luận miền Tây. Nội vụ đại cương: Một sĩ quan
cao cấp của Hòa Hảo bị bắt. Ông ta có một cô vợ khá nhan sắc… Nghe đâu trong một
dịp ông Nhiễu gặp mặt mụ này làm ầm lên, gây sì căng đan lớn… không hiểu trong
vụ Hòa Hảo có âm mưu hạ uy tín ông Nhiễu hay không?
Ông bị thuyên chuyển và Thiếu Tá Nguyễn Văn Minh được thay
thế. Thiếu Tá Minh là một sĩ quan trẻ, cũng có ít nhiều liên hệ với Phó TT Thơ.
Trước khi được làm Tỉnh Trưởng Long Xuyên, ông Minh là Thanh Tra Bảo An tại mấy
tỉnh Hậu Giang. Sau vụ này, Phó TT Thơ tỏ ra phiền muộn không ít. Thiếu Tá Minh
bị “phe” của PTT Thơ nghi ngờ là người của ông Nhu. Đó cũng là lý do sau ngày
1-11-63 ông Nguyễn Văn Minh bị “hành hạ” khá nhiều trước khi đi làm Tư Lệnh Sư
Đoàn 21 Bộ Binh (1966).
Còn một chuyện “phiền muộn” khác nữa chẳng hạn năm 1957 Thiếu
Tá Nhan Minh Trang bị mất chức Tỉnh Trưởng Rạch Giá. Tuy Phó TT Thơ không nói
ra, nhưng coi đó như một điều phiền muộn.
Thiếu Tá Trang gọi PTT Thơ là “dượng ruột” (sau đảo chánh được
thăng Đại Tá và từng là chánh văn phòng của Thủ Tướng Thơ sau là Tỉnh Trưởng
Gia Định). Về vụ này, chính đương sự là Thiếu Tá Trang không lấy làm gì bất mãn
vì lỗi không do ông mà do sự “lem nhem” của ông Trưởng Ty Quan Thuế.
Nhưng do sự
không khéo của chính quyền khi lựa chọn người thay thế, đã không hỏi ý PTT Thơ,
vì ông Thơ vẫn cho rằng mình thông thạo am tường dân miền Tây, nhất là 3 tỉnh Rạch
Giá, Châu Đốc, Long Xuyên. Đó cũng là một điều làm ông Thơ không hài lòng chính
quyền hồi đó đã thiếu kinh nghiệm tâm lý quần chúng và địa phương nên thay vì bổ
nhiệm một tỉnh trưởng sinh trưởng tại miền Tây thì lại cử Trung Tá Hoàng Lạc là
người Bắc di cư. Kinh nghiệm cho biết phàm những tỉnh miền Tây hay miền Đông đã
có một sắc thái đặc biệt thì chính quyền không bao giờ bổ nhiệm một ông tỉnh
trưởng người Bắc hay người Trung đó không phải là sắc thái địa phương đòi phải
làm như vậy nếu muốn ông tỉnh trưởng “được việc” và chiếm được lòng dân. Bổ nhiệm
Trung Tá Hoàng Văn Lạc có thể chính quyền hồi đó cho rằng Rạch Giá với khu định
cư Cái Sắn phải gắn bó chặt chẽ với khối dân di cư thì ông Tỉnh trưởng là người
Bắc sẽ thuận tiện hơn. Cũng cần ghi nhận: Thiếu Tá Nhan Minh Trang rất có công
lao trong sự thành lập khu Dinh Điền Cái Sắn.
Dù vậy đã tạo nên một số ngộ nhận nhất là Trung Tá Lạc trước
khi làm tỉnh trưởng lại là Tư Lệnh Lữ Đoàn LBPVTT.
NGỒI CHƠI XƠI NƯỚC
Tuy nhiên, sự việc không đơn giản như vậy. Đối với ông Thơ,
chính quyền “của ông” lại gây cho ông một sự hiểu lầm to lớn hơn khác là khi
chính phủ cải tổ ngày 28-5-1961, ông Thơ bị mất chức Bộ Trưởng Kinh Tế cho dù
ông được nâng lên hàng Bộ Trưởng đặc nhiệm phối hợp phát triển kinh tế. Nhưng
ông Thơ lại cho rằng chức đó chỉ “ngồi chơi xơi nước”…Ông đã hoàn toàn mất thực
quyền về kinh tế. Tại một quốc gia tiến bộ, và trong một chế độ tiến bộ thì người
lãnh đạo phải là người hoạch định và phối hợp kế hoạch chứ không thể là người
chỉ biết cúi đầu thi hành kế hoạch. Nhưng một nước chậm tiến như VN người “lãnh
đạo” không chịu như vậy họ chỉ thích đóng vai trò “thừa hành” để được thượng cấp
sai khiến thuộc cấp.
Từ một tâm lý lãnh đạo như vậy, nên chức Bộ Trưởng đặc nhiệm
phối hợp đã chả được “nước nôi” gì. Hơn nữa, người thay ông Thơ lại còn quá trẻ
“tức ông Hoàng Khắc Thành ” (em Kỹ Sư Hoàng Kinh tốt nghiệp cao học thương mại)
Nhất là ông Thành lại thuộc giới khoa bảng, mới hồi hương.
Trong khi đó ông Thơ tuy là đốc phủ sứ song không phải là
dân khoa bảng.
Ông Thành lại là người Bắc và bị coi là tay chân của Bộ Trưởng
Nguyễn Đình Thuần. Ông Thành là người trẻ có khả năng, tính tình thẳng thắn,
nhưng lại khá vụng về trong thuật xử thế nên ông Thơ cho rằng ông Thành đi thẳng
với Phủ Tổng Thống về mọi vấn đề kinh tế, qua mặt ông Phó TT đặc nhiệm kế hoạch
KT.
Từ những sự kiện lặt vặt như vậy đã tạo cho Phó TT Thơ có mặc
cảm bị tước đoạt quyền hành và ông cho rằng phe ông Nhu đã “chơi” ông.
Khi ông Thơ không còn làm Bộ Trưởng Kinh Tế thì ông Ngô
Trong Hiếu lại được cân nhắc lên làm Bộ Trưởng Công Dân Vụ một tay quán xuyến
ba ngành Thông tin, Thanh Niên và Công Dân Vụ (thực tế thì chỉ có ngành Công
Dân Vụ) ông Hiếu được coi là người của ông Nhu và mỗi ngày càng được chế độ tin
dùng. Có lẽ đó cũng là lý do khiến cho đôi bạn Thơ, Hiếu mỗi ngày thêm xa cách
nhau.
Kể từ chiến dịch Rừng Sát uy tín của Tướng Minh mỗi ngày một
tăng cường trong quân đội. Uy tín đó phải công nhận rằng, guồng máy tuyên truyền
(báo chí-đài phát thanh ) của chế độ cũ đã có công phát triển và hào quang hóa
“anh hùng Rừng Sát” nhất là từ đêm liên hoan tại trường Pétrus Ký (1956) các
đoàn thể đã không tiếc lời ca tụng Tướng Minh và các chiến sĩ Rừng Sát. Tướng
Minh lại biết “tự làm vắng mặt mình” khi thấy cần, ít ồn ào và trầm lặng khó hiểu
cho nên “huyền thoại Rừng Sát miền Tây” lại càng có dịp thêu hoa lá trong quân
đội nhất là giới sĩ quan trẻ.
Trước năm 1963 Tướng Minh cũng chỉ đủ túc dụng hàng ngày
không nghèo không giàu đó là ưu điểm để tăng cường uy tín của ông trong giới trẻ.
NGÀI NGOẠI TRƯỞNG
Như đã viết trên, nhiều tướng tá nhờ sự đề bạt của PTT Thơ
nên suốt 9 năm của chế độ Ngô Đình Diệm đã được hưởng mũ áo xênh xang. Điển
hình là ông Albert Nguyễn Cao.
Ông Cao khi là sĩ quan cấp Úy đã từng là sĩ quan tùy viên của
Tướng Nguyễn Văn Hinh. Đáng lý ra khi Tướng Hinh đại bại thì ông Cao cũng khó
lòng tiến thân được. Nhưng rồi nhờ “uy thế” của ông Thơ, Thiếu Tá Cao từ Trưởng
Khu Dinh Điền Cao Nguyên leo lên Tổng Ủy Trưởng Dinh Điền. Thời Nguyễn Khánh được
phong Chuẩn Tướng và Đổng Lý Văn phòng của tướng Khánh.
Bức tranh “vân cẩu” của thế sự đã diễn ra bao nhiêu “hình
thù” hào quang một phút rồi đen tối cũng chỉ một phút.
Đã có bao nhiêu huyền thoại xây trên đổ vỡ và cái hèn mọn nhất
của con người. Cũng nên nhắc lại nhân dịp nhắc đến “huyền thoại” này “huyền thoại”
kia…trong 7, 8 năm làm Ngoại Trưởng thì GS Mẫu cũng là một huyền thoại, GS Mẫu
vì được “ông cụ” kính nể. Cho nên mọi người cũng kính nể có khi đến độ “thần
thánh” nhà trí thức đại khoa bảng này.
GS Mẫu là một luật gia uyên thâm Thạc Sĩ Tư Pháp Giáo Sư thực
thụ Đại Học Luật Khoa Saigon). Sự ăn nói mạch lạc và cách đi đứng đàng hoàng của
ông ta đã dễ dàng thu hút được cảm tình và sự kính nể của TT Diệm. Nhưng ông Diệm
đã “vỡ mộng” đau điếng người khi ông Mẫu “xuống tóc” cho đến lúc sau này TT Diệm
vẫn biện minh cho lòng kính nể ông Mẫu “Ngài đàng hoàng đấy, nhưng phải làm thế
chỉ vì ngài nể bà Ngoại Trưởng” (ông Mẫu là người thứ hai sau ông Thơ được ông
Diệm gọi là Ngài). Số là, giới cận thần tại Dinh Gia Long và Bộ Ngoại Giao bấy
giờ cho biết: ông Ngoại Trưởng rất “vị nể” phu nhân. Phu nhân lại đau yếu luôn
luôn vì bị mất một lá phổi. Phu nhân cũng như gia đình Ngoại Trưởng rất mộ đạo
Phật. Thế nhưng trong vụ Phật Giáo trước tháng 8, NT rất im lặng, phục vụ.
Buổi sáng này 20-8 Ngoại Trưởng Mẫu còn hướng dẫn tân Đại Sứ
Anh đến trình uỷ nhiệm thư tại Dinh Gia Long. Ông đã bày tỏ thái độ hoàn toàn đồng
ý với chính phủ. Song buổi chiều ngày 21-8 đột nhiên ông Ngoại Trưởng lại xuống
tóc phản đối. Đó là một hành động đẹp theo tinh thần kẻ sĩ Phương Đông. Nhưng
dư luận lại cho rằng, ông phải làm như thế vì phu nhân làm áp lực quá dữ dội.
Sau này, ông Nguyễn Đình Thuần thuật lại: “Nếu ông ấy xuống tóc và xin đi hành
hương, nhưng đừng làm cái việc cố “vận động chạy chọt để đổi thật nhiều
dollars, ba, bốn ngàn gì đó, thì cũng còn coi được“. Ông Thuần mà phê bình GS Mẫu
như thế thì kể cũng hơi kỳ (Theo dự luật tại Viện Hối Đoái thì Phủ Tổng Thống
chỉ thị Viện này để GS cựu Ngoại Trưởng được đổi 5000 dollars).
Vì tiếng súng đảo chánh bùng nổ, ông Thuần với tư cách Bộ
Trưởng Quốc Phòng (phụ tá QP kiêm Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống) song lại chuồn lẹ
nhất đến nỗi trong Dinh không còn biết ông ở đâu để liên lạc.
CHÁY NHÀ RA MẶT CHUỘT
Đêm 1-11, ông Thuần và Nguyễn Lương là hai Bộ Trưởng đến
trình diện tại HĐQNCM sớm nhất. Một vị tướng phê bình “Cháy nhà mới ra mặt chuột.
Chế độ ông Diệm sụp đổ cũng chỉ vì có những Bộ Trưởng như vậy. Khi đến trình diện
thì rụt dè khúm núm quá, chả bù khi còn thét ra lửa“.
Nhờ sự đầu hàng sớm như vậy, cũng như sự khúm núm rụt rè, sợ
hãi hai ông được HĐQNCM cho về nhà thong dong. Ít lâu sau, ông Thuần qua Pháp,
vì vợ con ông đã ở sẵn bên đó. Ông Nguyễn Lương được thong dong đến một năm
sau, thời tướng Khánh, ông bị bắt vì tội Cần Lao. Thật là số mệnh an bài…trước
đó thì chả sao. Ông Nguyễn Lương bị đưa vào Khám Chí Hòa hôm trước, thì hôm sau
ông bị đưa lên xe bịt bùng ra máy bay trực chỉ Côn Sơn.
- Ơ? Tôi đâu có tội gì? Riêng Hoa Kiều Mã Tuyên bị lao lý
trước, ông Lương hàng năm trời, nhưngTuyên vẫn cam phận “tội thì tội chớ”
CÁI GAI CẦN NHỔ
Chính phủ Nguyễn Khánh kết tội ông Nguyễn Lương là cán bộ
cáo cấp của Cần Lao quả là bóp méo sự thật. Ông Lương thuộc hàng quan lại cũ –
Năm 1955, ông đã lên đến ngạch Chưởng Lý Tòa Thượng Thẩm. Khi GS Vũ Quốc Thông
giữ chức Bộ Y Tế và Xã Hội thì ông Nguyễn Lương làm Tổng Giám Đốc Xã Hội (viên
chánh văn phòng của ông là Hoàng Thế Phiệt sau trở thành Nghị Sĩ của Thượng Viện
Đệ II Cộng Hòa) – Khi Nha Tổng Giám Đốc Xã Hội tách ra khỏi Bộ Y Tế và trực thuộc
Phủ Tổng Thống thì đây là dịp ông Lương được gần TT Diệm. Nhờ tài ăn nói lưu
loát và am tường pháp luật, ông Lương rất được TT Diệm tín nhiệm. Đứng trước TT
Diệm ông luôn chấp tay cung kính. Ông trở thành cố vấn Pháp Luật của TT Diệm và
sau được bầu làm Chủ Tịch Liên Đoàn Công Chức Cách Mạng Quốc Gia.
Cái chết của TT Diệm mang theo sự sụp đổ của chế độ Đệ I Cộng
Hòa đồng thời tố cáo luôn bộ mặt thực của một số thư lại gia nhân. Chính họ đã
góp công lật đổ, trước hết vẫn là một thảm kịch đó đã kéo dài trên một thế kỷ.
Những viên đạn nổ vào đầu Ông Diệm chỉ là kết quả của bao nhiêu mâu thuẫn nội bộ
của những ưu điểm và nhầm lẫn, của sự phân hóa trong hàng ngũ Quốc Gia, và đồng
thời cũng là kết quả của cuộc hôn nhân miễn cưỡng giữa Mỹ và Việt xa hơn nữa là
sự “thọc gây bánh xe” của Pháp và gần nữa là Cộng Sản. Đối với CS thì ông Diệm
hay ai cũng thế thôi đều là kẻ thù của họ, nếu bản chất là quốc gia.
Người quốc gia tiến bộ và thực tâm yêu nước, biết bảo vệ chủ
quyền thì lại càng trở thành kẻ thù nguy hiểm nhất của CS. Năm 1945-1946, CS đã
không giết Tổng Đốc Hồ Đắc Điềm hay hung thần Vi Văn Định, song họ đã phải
thanh toán ngay Lê Ninh (lãnh tụ VQ-Dân chúng dạo ấy đã có câu: Việt Quốc Lê
Ninh, Việt Minh Trần Văn Giầu) Một Phan Văn Hùm, Một Tạ Thu Thâu cùng bao nhiêu
người quốc gia khác. Cộng Sản đã sửa soạn cho Ông Diệm một cái chết theo kỹ thuật
đoản kỳ và trường kỳ của họ kể từ năm 1954 khi ông ở hải ngoại về nước chấp
chánh.
Thực dân Pháp cũng đã chuẩn bị cho ông một “cái chết” từ khi
Trần Đình Lan đang cầm quyền phòng VI và biệt đội Con Ó (1954). Từ đầu năm
1963, một số người Mỹ cũng bắt tay vào làm công việc ấy. Năm 1963 con số cố vấn
Mỹ tại miền Nam đã lên đến 14.000 người đồng thời tại Bộ Ngoại Giao Mỹ thành lập
một Ủy Ban Nghiên Cứu hỗn hợp về xử dụng “sức mạnh” của Mỹ tại Việt Nam , Ủy
ban ấy mang một danh xưng thật đẹp “Việt Nam Task Force” mà người đứng đầu là
Hislman.
Vấn đề chủ quyền quốc gia đối với TT Diệm đã trở thành đầu mối cho tấm
thảm kịch Việt Mỹ. Nếu Hislman đặc trách Á Châu sự vụ có phận sự nghiên cứu những
phương thức Mỹ nhằm tiêu diệt CS tại Việt Nam, thì song hành với công việc này
Hislman cũng đã “sửa soạn” theo kỹ thuật của Mỹ để “hạ” một Tổng Thống cứng đầu
như ông Ngô Đình Diệm. Lu Conein cũng như Smith và Hislman, Fishtel nghĩa là cả
guồng máy CIA đã góp công vào sự sửa soạn này.
Trí Nhân Media
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét