21-9-2012
Ngày 22/9/2012, kỷ niệm
80 năm ngày ra đời của hai Tuần Báo Phong Hóa và Ngày Nay của Tự Lực Văn Đoàn,
bà Phạm Thảo Nguyên, con dâu của nhà thơ Thế Lữ trong TLVĐ, cùng các cộng tác
viên sẽ công bố để công chúng xử dụng, và “down load” miễn phí toàn bộ 414 số báo
của hai tờ tuần báo Phong Hóa và Ngày Nay (http://tuoitre.vn/Van-hoa-Giai-tri/512229/Chia-se-mien-phi-bao-Phong-Hoa—Ngay-Nay.html)
Đây là một sự kiện gây chấn động
trong giới nghiên cứu văn chương, văn hóa, xã hội và ngay cả chính trị. Cách
nay không lâu, khi nghe phong thanh tin đồn về dự án này, nhiều người yêu văn
chương và học thuật nước nhà đã thốt, “Đáng lẽ công tác này đã phải được xúc tiến
từ lâu!”
Nhưng chậm còn hơn không. Nhà nước không làm thì tư nhân làm. Công tác của nhóm sưu tầm của bà Phạm Thảo Nguyên và các cộng tác viên thực đáng được hoan nghênh. Việc phổ biến hơn 400 số báo quí giá này lần đầu tiên cung cấp đầy đủ tư liệu trực tiếp cho các nhà nghiên cứu văn học để phân tích, đánh giá sự đóng góp to lớn của văn đoàn có một không hai này không những trong lịch sử văn học, văn hóa mà ngay cả trong lãnh vực xã hội, và chính trị của nước nhà.
Sự kiện công bố vào ngày 22/9 này
toàn bộ các số báo Phong Hóa và Ngày Nay mới sưu tầm được mang lại niềm vui cho
nhiều người. Luật sư Nguyễn Thị Dương Hà, mà phu quân của bà là Tiến Sĩ Cù Huy
Hà Vũ, một hậu duệ trực hệ của TLVĐ đã viết,
“Một sự kiện vui như vậy mà rất tiếc
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ, cháu ruột và cũng là con nuôi của cố Thi sĩ Xuân Diệu lại
không được biết và chia sẻ. Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ hiện đang bị tù giam tại Trại
giam số 5 – Bộ Công an, Yên Đinh, Thanh Hòa vì bị Tòa án Nhân dân Tối cao kết án
07 năm tù về “Tội tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam”.
Tôi chắc rằng, nếu Tiến sĩ Cù Huy
Hà Vũ ở nhà thì dứt khoát ông đã nhiệt tình tham gia sưu tầm và đóng góp di sản
của cố thi sĩ Xuân Diệu thời Tự Lực Văn Đoàn.
Nhân sự kiện này, tôi xin gửi tới
Ban Biên Tập bài viết của Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ nhân Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
tại Cẩm Giàng, Hải Dương ngày 9/4/2008 bài viết “Xuân Diệu – Huy Cận với Tự Lực
Văn Đoàn”, kèm theo 01 bức ảnh Xuân Diệu và các thành viên khác của Tự Lực Văn Đoàn
chụp năm 1938.”
Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn tại Cẩm Giàng, Hải Dương ngày
9/4/2008
XUÂN DIỆU – HUY CẬN VỚI TỰ LỰC VĂN ĐOÀN
Tiến sỹ Cù Huy Hà Vũ (1)
Tự Lực Văn Đoàn được thành lập vào ngày 2-3-1933 bởi nhóm
làm báo Phong Hóa mà theo Xuân Diệu và Huy Cận gồm bảy người: Nhất Linh (Nguyễn
Tường Tam), Khái Hưng (Trần Khánh Giư), Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), Thạch
Lam (Nguyễn Tường Lân), Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ), Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu) và họa sỹ
Nguyễn Gia Trí (2) với Nhất Linh làm giám đốc, có trụ sở tại 80 Grand-Bouddha
(tức Quán Thánh) Hà Nội (điều kỳ khôi là Tự Lực Văn Đoàn do báo Phong Hóa “đẻ”
ra nhưng đứa con ấy lại mang sứ mệnh định hướng tồn tại cho chính kẻ đã sinh ra
mình!).
Nhóm này chủ trương “Tự sức mình làm ra những sách có giá trị về văn
chương chứ không phiên dịch sách nước ngoài… để làm giàu thêm văn sản trong nước”,
“Ca tụng những nét hay, vẻ đẹp của nước nhà mà có tính cách bình dân, khiến cho
người khác đem lòng yêu nước một cách bình dân. Không có tính cách trưởng giả,
quí phái” và nhất là “Trọng tự do cá nhân”.
Con số 7 gắn với mục đích văn
chương này gợi nhớ tới Pléiade gồm bảy nhà thơ của Pháp thế kỷ 16 do Ronsard và
Du Bellay cầm chịch nhưng Tự Lực Văn Đoàn chỉ có thể được coi là “bản sao”
của Thất tinh Pháp với sự gia nhập của Xuân Diệu.
“Và từ đây chúng ta đã có
Xuân Diệu”, lời reo vui ấy của Thế Lữ trong Tựa Thơ thơ cũng chính là
sự hoan nghênh nhiệt liệt của nhóm Tự Lực dành cho chàng thi sĩ “hiền hậu và
say mê” được khám phá bởi chính họ.
Quả vậy, Xuân Diệu ra mắt công chúng với Với Bàn Tay Ấy in trên báo Phong Hóa năm 1935 khi còn là cậu học sinh Lycée
(trung học) Khải Định và Thế Lữ chính là người đã có “con mắt xanh” phát hiện
ra và hơn thế nữa hết lòng tuyên truyền cho tài năng ấy.
Giở lại trang thư của
tác giả Nhớ Rừng gửi Xuân Diệu từ 1936, ta có thể đọc: “Lúc nào
nghĩ đến anh, hay nói đến anh trước mặt bạn hữu tôi, tôi đều thấy vui vẻ sung
sướng như nghĩ đến, nói đến một thứ tài trong trẻo và có hy vọng rất nhiều.
Nhiều lần tôi đọc thơ anh cho người khác nghe để giảng dẫn cho họ thấy những
tình cảm rất tươi thắm mà chưa nhà thi sĩ Việt Nam nào phô diễn ra được. Tôi
tin ở tài anh lắm và lúc nào cũng mong được đọc thơ anh gửi ra”.
Rồi “Thấy
anh được thưởng giải nhất về Pháp văn ở Concours Général (giải toàn Đông
Dương mà hai năm sau, 1938, Huy Cận cũng đoạt được - CHHV), tôi rất sung sướng,
nhưng không lấy gì làm lạ. Xuân Diệu giỏi hơn các bạn học về văn
chương là một việc dĩ nhiên rồi. Tôi mong cho công nghiệp trước tác của anh sau
này cũng rực rỡ như thế”.
Mong muốn ấy, hay sự “đặt cược” vào tương lai
nghệ thuật của Xuân Diệu còn được Thế Lữ công khai trên mặt báo. Trong Một Nhà Thi Sĩ Mới – Xuân Diệu đăng trên Ngày Nay số Mùa Xuân 1937, thi nhân họ
Nguyễn quả quyết: “Sự cảm động dồi dào và quý báu của ông còn cho chúng ta thấy
nhiều hứng vị của cái chân tài đặc biệt ấy. Tôi mong rằng sẽ được dịp nói
đến thơ Xuân Diệu nhiều hơn, để lại được ca tụng nhà thi sĩ của tuổi xuân, của
lòng yêu và của ánh sáng”.
Song Kim, bạn nghề sân khấu và bạn đời của Thế Lữ,
nhớ lại sau sự kiện này mỗi khi có người thắc mắc sao ông không làm thơ nữa mà
lại quay về với kịch thì Thế Lữ không một chút ngần ngừ: “Vì đã có Xuân Diệu!”
(3).
Như thế “chúa rừng Thơ Mới” thoạt kỳ thủy giờ đã hết phải ngậm ngùi “thời
oanh liệt nay còn đâu” vì đã tìm ra được kẻ xứng đáng kế tục mình trong công cuộc
chinh phục hoàn toàn chốn “thi lâm” đất Việt. Ôi, những tình cảm đẹp đẽ và đầy
ánh sáng như thế của bậc đàn anh đối với người đến sau trong làng văn có còn lặp
lại được ru!
Không chỉ dừng lại đấy, Thế Lữ “chộp” lấy “tài trong trẻo và có hy
vọng rất nhiều” ấy để gây thanh thế cho Tự Lực ngay khi chàng vừa đỗ Bac (Tú
Tài) vào tháng 6/1937 với lời mời gọi thiết tha: “Anh Xuân Diệu. Anh có thể ra
ngay Hà Nội được không? Ra để liệu tìm cách sống ở đây, nghĩa là để lăn lóc vất
vả cùng với bạn hữu”. Và dường như để khẳng định cái “nghiệp” văn bút, ông tiếp: “viết
bài” kiếm ăn” được ít, nhưng có lẽ đó là thứ công việc hợp với chúng
ta hơn”.
“Được lời như cởi tấm lòng”, Xuân Diệu từ Huế ra ngay Hà Nội và xắn
tay viết cho báo Ngày Nay, tờ báo duy nhất của Tự Lực Văn Đoàn sau khi báo
Phong Hóa bị đóng cửa vào năm 1936 (4) và năm sau, 1938, sau khi Thơ Thơ được
“trình làng” đã chính thức “xe duyên” cùng thể chế văn chương này với tư cách
là thành viên thứ Tám (5).
Đáng chú ý là sự nhiệt tình, cái sốt sắng ấy của Tự
Lực dành cho Xuân Diệu cũng là tình cảm chung của nhiều nhóm thi nhân cùng thời
và thi sĩ họ Ngô trên thực tế đã trở thành đối tượng “giành giật” của các nhóm
đó.
Chính Hàn Mặc Tử đã bàn với Chế Lan Viên ngay từ tháng 1/1938 là mời cho bằng
được Xuân Diệu để lập một Thi Xã tên là Hoàng Anh Tao Đàn với mục đích “nâng
cao trình độ thơ mới và tuyển trạch nhân tài”. Cái Thi Xã ấy của “ba chàng ngự
lâm pháo thủ” xứ Bình Định mãi mãi là dự định vì bản thân Chế đã cảm nhận được
sự gắn bó của Xuân Diệu với Thất tinh Hà Nội nên việc không thành và vì vậy thi
sĩ họ Hàn lấy làm “tiếc lắm”.
Cũng cần nhắc lại rằng Tự Lực Văn Đoàn, ngoài các
báo Phong Hóa và Ngày Nay, còn sở hữu Đời Nay, một nhà xuất bản lấy “Tìm tòi những
nhà văn có giá trị, khuyến khích họ, làm cho nhà văn và tác phẩm được nhiều người
biết đến” làm phương châm. Vì thế có gì đáng ngạc nhiên khi Thơ thơ, “cụm
đầu mùa” của Xuân Diệu, là do Đời Nay ấn hành.
Cũng như vậy, khi tập thơ được Đời
Nay quảng cáo đúng dịp Noel 1938 với những tung hô có thể nói chưa từng có
trong lịch sử xuất bản: “Một ngày trong văn học sử Việt Nam, ngày ra tập thơ đầu
của Xuân Diệu – “Một thiên tài sớm lộ” – Chỉ có nhà thơ đó hiểu ta và gần ta nhất
– Quyển sách đẹp nhất từ trước đến nay”.
Ngược lại, chẳng có gì là lạ khi Xuân
Diệu đề tặng các thành viên của “gia đình văn chương” của mình những bài thơ
khoái cảm nhất của ông: Cảm Xúc tặng Thế Lữ, Đây Mùa Thu Tới tặng
Nhất Linh, Đi Thuyền tặng Khái Hưng, Vô Biên tặng
Hoàng Đạo, Nhị Hồ tặng Thạch Lam, Giới Thiệu tặng Tú Mỡ, Đơn
Sơ tặng Nguyễn Gia Trí. Thế nhưng có người vồ lấy cái tiêu đề ấy, những lời
đề tặng ấy để nói Xuân Diệu là người cạn nghĩa cạn tình khi “cạo hẳn” dòng chữ
Tự Lực Văn Đoàn trong Thơ Thơ in lần thứ hai và những lời đề tặng Nhất
Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo trong những ấn phẩm sau này của ông. Thực ra, ai nói
như vậy không phải là người làm nghiên cứu đến nơi đến chốn. Thực ra, bên cạnh
Tự Lực Văn Đoàn, Xuân Diệu đã có Huy Cận.
Vốn vô cùng mê say Với Bàn Tay Ấy, Huy Cận chỉ có thể mừng
rỡ được gặp thi nhân cùng quê Hà Tĩnh hơn mình hai lớp trong buổi tựu trường của
Lycée Khải Định (Quốc học cũ) tháng 9/1936. Ngay lập tức hai hồn thơ gắn với
nhau như định mệnh để rồi có những dự định riêng mãi mãi. Một trong những dự định
ấy là xuất bản các tác phẩm của hai người bằng tiền túi của mình.
“Huy Xuân”
như một nhà xuất bản đã ra đời như thế vào cuối năm 1939 ngay sau khi Huy Cận
vào học Cao đẳng Canh Nông với nguồn tài chính là nhuận bút viết báo của Xuân
và học bổng hạn hẹp của Huy. Và sản phẩm đầu tiên của cái “Nhà” ấy lại là Thơ
Thơ. Lần tái bản này, quả thực không còn dòng chữ “Tự Lực Văn Đoàn” nữa. Có
một sự thật hiển nhiên nhưng lại ít người biết là Đời Nay độc quyền xuất bản
các tác phẩm của thành viên Tự Lực Văn Đoàn hay nói cách khác, một khi đã mang
danh thành viên của Nhóm thì tác phẩm không thể in ở nhà xuất bản khác.
Vì
vậy trước khi thực hiện dự định của mình, đôi bạn Huy - Xuân đã rủ nhau đến gặp
Ban trị sự Đời Nay để có được sự thông cảm thì được nhũn nhặn trả lời rằng việc
các ông tái bản Thơ Thơ ở nơi khác dĩ nhiên là quyền của các ông
nhưng trong trường hợp đó đừng để Tự Lực Văn Đoàn vào sách vì lý lẽ đã rõ. Vậy
là vẹn cả đôi bề.
Cũng phải nói ngay rằng Thơ Thơ là ấn phẩm duy nhất
của “Huy Xuân” vì hai dự định khác là xuất bản Tây Sương Ký do Nhượng
Tống dịch (đã giả trước nhuận bút) và tái bản Phấn Thông Vàng đã
không thành, đơn giản là vì ngay sau Tết 1940, Xuân Diệu đã rời Hà Nội vào Mỹ
Tho làm Tham tá nhà Đoan (douanne - tiếng Pháp - là quan thuế) và năm sau
bản thảo của Nhượng Tống đã bị chủ Nhà xuất bản Tâm Việt lừa lấy mất!
Điều đáng
nói ở đây là thái độ “làm ngơ” đầy thông cảm của các thành viên còn lại trong
Nhóm bởi họ quá yêu Xuân Diệu cùng bạn chàng, Huy Cận. Phải nói các thủ lĩnh của
Tự Lực Văn Đoàn rất có cảm tình với Huy Cận dĩ nhiên và trước hết là do tài thơ
của họ Cù vì khi đăng Chiều Xưa, thi phẩm đầu tiên của ông cùng
một khung với bài Cảm Xúc của Xuân Diệu trên Ngày Nay số Tết năm
1938, họ vẫn chưa biết Xuân Diệu và Huy Cận đã là một đôi bạn tri kỷ.
Thực vậy,
nhận được bài thơ của Huy Cận gửi từ Huế ra, Xuân Diệu lại không làm cái việc
“lăng-xê” bạn mình như người đời thường làm bằng cách cầm bài thơ ấy đến gặp Nhất
Linh hay Thế Lữ là người phụ trách mục thơ của báo mà lại gửi bằng bưu điện đến.
Vậy là, chỉ sau khi Huy Cận đã được “làng” Tự Lực “duyệt” với bài Chiều
Xưa rồi, nhân đầu Năm mới Xuân Diệu mới đưa “người thi sĩ lành như suối nước
ngọt, hiền như cái lá xanh” lần đầu tiên ra đất ngàn năm văn vật và cũng là lần
đầu thăm đất Bắc, đến 80 Quán Thánh để chào các thành viên của cái Văn Đoàn
“khét tiếng” đấu tranh cho một nền văn chương mới gắn với tự do cá nhân và đời
thường bình dân ấy.
Đến chào theo đúng nghĩa đen của từ này vì Huy Cận không
mang theo bài thơ mới nào hết. Và Huy Cận đã may mắn gặp được tất cả, đặc biệt
Nhất Linh và Thế Lữ mà ông đã từng đọc và học rất nhiều. Ngay khi mới gặp chàng
Huy – cha tôi bồi hồi nhớ lại - Nhất Linh hạ ngay: “Bài Chiều Xưa của
anh hay lắm, rất cổ mà lại rất mới”. Và như để chứng minh cái tâm đắc của mình,
Nhất Linh đọc một hơi bài thơ ấy trước sự ngỡ ngàng của tác giả rồi nói rằng
Huy Cận cứ gửi thơ ra là Ngày Nay sẽ đăng.
Rõ là một cú “đúp” thành công của
thi nhân họ Cù: không những ông được vị thủ lĩnh tao đàn hoan nghênh nhiệt liệt
mà thơ của mình từ đây không sợ không có “đầu ra”! Không nghi ngờ gì nữa, thái
độ nể phục ấy của vị chánh chủ khảo Giải thưởng Tự Lực Văn Đoàn có giá trị như
vòng nguyệt quế đầu tiên mà Huy Cận nhận được trong đời thơ của mình.
Sau này,
khi ở Sài Gòn, Nhất Linh còn khẳng định rằng “về lục bát, Huy Cận là hậu
duệ của Nguyễn Du!”. Khái Hưng, Tú Mỡ, Hoàng Đạo, Thạch Lam và Nguyễn Gia Trí
cũng chỉ có thể chia sẻ quan điểm của “thủ lĩnh” Nguyễn. Đặc biệt Khái Hưng,
cũng như Nhất Linh, rất đề cao thơ Huy Cận. Ông còn nói với Nguyễn Hữu Đang lúc
đó hoạt động trong Hội Truyền bá Quốc ngữ : “Huy Cận hay từng bài, từng
câu, từng chữ ”.
Thế Lữ thì lại trách Xuân Diệu sao không đưa bài thơ ấy trực
tiếp cho ông mà lại vòng vèo thế. “ Là vì - Xuân Diệu đáp - tôi muốn xem giá trị
thật của bài thơ thế nào chứ tự tôi đưa đến e mất khách quan”. Ngẫm lại, quả
thi nhân họ Ngô ngay từ còn măng tơ đã là một bậc thầy trong đối nhân xử thế trên
căn bản biết mình, biết bạn và biết người. Là kẻ “tri âm”, Xuân Diệu muốn bạn
mình “hữu xạ tự nhiên hương”, hay mượn cách nói thời thượng, muốn Tự Lực Văn
Đoàn “tâm phục khẩu phục”. Cái tâm của Lưu Bình đối với Dương Lễ ấy của chàng
Xuân dường như đã thấu tới Ông Trời nên vô tình mà như hữu ý sự “trình làng” của
chàng Huy trên Ngày Nay lại được xếp cặp với chàng Xuân. Như thể Tự Lực Văn
Đoàn đã tiên liệu “cỗ song mã Huy – Xuân”, ấy là cách đưa Thơ Mới đến
với nhân gian một cách lộng lẫy nhất!
Kỳ vọng của Xuân Diệu nơi Huy Cận đã được đền đáp: Lửa
Thiêng đã được Đời Nay cho ra mắt bạn đọc vào năm 1940 với 3000 bản, một số
lượng vào loại kỷ lục thời đó. Hơn thế nữa, điều này mới là quan trọng, Tự Lực
Văn Đoàn quyết định kết nạp thi sĩ họ Cù và lịch sử văn chương Việt Nam lẽ
ra biết tới thành viên thứ Chín của Tao đàn ấy nếu không có những biến cố chính
trị xảy ra gắn liền với cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II.
Thực vậy, sự nuối
tiếc của Huy Cận vì đã không kịp trở thành thành viên chính thức của Tự Lực Văn
Đoàn không phải đợi đến mãi sau này mới được cha tôi thổ lộ với tôi mà đã bộc lộ
từ lâu, ở dòng chữ “trong Tự Lực Văn Đoàn” do chính tay ông viết bên cạnh tên
mình trong tờ quảng cáo Nhà xuất bản Đời Nay in năm 1941, trong đó, ngoài các
thành viên của Nhóm và Huy Cận ra còn có Đỗ Đức Thu, Trần Tiêu, Nguyên Hồng,
Nguyễn Khắc Mẫn, Đoàn Phú Tứ, Trọng Lang, Anh Thơ (đúng ra là Cô Anh Thơ), Mạnh
Phú Tư cùng ảnh chân dung của họ.
Cái “tình cảm gia đình” của Tự Lực dành cho
chàng thi sĩ quán sông La ấy có thể cảm nhận được rất rõ trong thư của Khái
Hưng ngay sau khi thi sĩ họ Ngô khăn gói vào Mỹ Tho: “Anh đi Nam, chúng tôi thấy
thiếu anh quá. Nói thực đấy, không khách sáo đâu. Nhất những hôm hội họp ở nhà
anh Tam ai ai cũng bảo: “Thiếu có Xuân Diệu”. Nhưng có người tiếp luôn: “Đã có
Huy Cận ăn hộ cả hai người. Huy Cận, ai cũng coi như một nửa của linh hồn
anh !”.
Rồi chính tác giả của Tiêu Sơn tráng sĩ đã cùng với Nhất Linh, Thạch
Lam và họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung dẫn Huy Cận đi thăm chùa Tây Phương và chùa Thầy
nhằm khẳng định lòng tự hào dân tộc vốn là động lực của Tự Lực Văn Đoàn trong
cuộc đấu tranh chống lại chính sách nô lệ của Pháp. Mặt khác cũng rất có thể
khi tổ chức những cuộc du ngoạn đó các thành viên của Tự Lực Văn Đoàn muốn thấy
một Huy Cận Đường thi chuyển hứng mạnh hơn nữa sang văn hóa của cha ông.
Bản
thân bố tôi cũng thừa nhận rằng tứ của bài Các Vị La Hán Chùa Tây Phương đã
manh nha từ dạo ấy. Và anh em nhà Nguyễn Tường trên thực tế đã “gia đình hóa”
tình bằng hữu, đồng nghiệp bằng cách thường xuyên tổ chức cho các thành viên của
Văn Đoàn cũng như các công tác viên thần thiết nghỉ ngơi, thư giãn tại trại của
thân mẫu các ông là bà Thông Nhu ở Cẩm Giàng, Hải Dương.
Song Kim vẫn nhớ
như in những ngày vui ấy: Không cứ ngày lễ, Tết, bất cứ lúc nào rảnh việc ở báo
Phong Hóa, Ngày Nay là anh Tam lại kéo anh em trong Tự Lực Văn Đoàn và một số bằng
hữu khác về chơi ở trại của mẹ anh cạnh ga xép Cẩm Giàng. Bà cụ Thông Nhu ăn mặc
như các bà khá giả ở Hà Nội, áo cài cúc, quý anh em lắm, dọn đủ các món ăn. Tôi
nhớ anh Xuân Diệu rất hay về, ăn rất khỏe, có lần ăn một lúc hai cái bánh
chưng. Ai thích nghỉ thì nghỉ nhưng rốt cuộc mọi người lại quay vào nói chuyện
văn nghệ. Trại Cẩm Giàng quả thực là tổ ấm của Tự Lực Văn Đoàn”.
Trong hồi ký của
mình, Huy Cận cũng kể: “Có một Tết Nhất Linh và Thạch Lam đã rủ anh Xuân Diệu
và tôi về ăn Tết ở Cẩm Giàng (Hải Dương), nơi bà cụ của hai anh vẫn ở và sinh sống
từ ngày ông cụ thân sinh của các anh còn làm quan ở huyện. Đêm giao thừa chúng
tôi thức để đi bẻ lộc trong vườn và sau khi ăn bát chè đậu xanh giữa phút giao
thừa thì chúng tôi trải chiếu ngủ trên ổ rơm rất ấm và thỉnh thoảng ngâm thơ Thế
Lữ “Thuở ấy đượm màu sương gió biếc – Trời mây huyền ảo đắm hồn thơ – Cây im
vin bóng um tùm lá – Sông thẳm nguồn sâu nước đợi chờ” (7). Để nói trong thực tế,
Huy Cận đã thuộc về Tự Lực Văn Đoàn và cho đến tận hôm nay cha tôi vẫn dùng những
lời âu yếm nhất để nói về thực tại đó.
Tình thân thiết đã như chân tay thì chỉ còn gượng cười khỏa
lấp cái sầu ly biệt. Bát tiên quá… chén là cái cười gượng ấy của các
thành viên của Nhóm trong giờ phút chia tay với Xuân Diệu vừa được bổ làm Tham
tá nhà Đoan tại Mỹ Tho. Trong tay tôi là một tờ giấy dó lụa với hoa văn dập nổi
màu ngà rất sang (mà tôi đồ rất sẵn tại Nhà xuất bản Đời Nay vốn tọa lạc cùng
trụ sở Tự Lực Văn Đoàn tại 80 Quán Thánh) trên đó Hoàng Đạo, Nhất Linh, Thạch
Lam, Huy Cận, Thế Lữ, Tú Mỡ, Khái Hưng, Xuân Diệu (theo thứ tự chữ ký) mỗi người
góp một câu:
BÁT TIÊN QUÁ… CHÉN
Bỗng dưng thi sĩ hóa tây Đoan
Nửa mặt nhà văn, nửa mặt quan
Chén rượu tiễn đưa thơ khó nghĩ
Nỗi niềm cách biệt ý khôn toan
Hôm nay nhớ bữa chia bùi ngọt
Lát nữa còn vui cảnh tóp chan
Ví thử anh em đều xuất cả
Còn tuôn ra lắm mạch thơ gàn…
Hanoi 2-2-1940
Và đâu chỉ có Xuân Diệu và Huy Cận không thể quên một thời
“chia bùi ngọt” với Tự Lực Văn Đoàn mà qua hai ông, bản thân tôi cũng tiếc nuối
cái bầu không khí văn chương lãng mạn và gia đình ấy trong đó tập thể tồn tại
cùng riêng tư, trong đó đố kỵ, “bằng mặt mà chẳng bằng lòng” phải khiếp đảm trước
triết lý “mình vì mọi người, mọi người vì mình” trong cuộc đấu tranh đầy cam go
vì một nền “văn học quốc ngữ”.
“Gái có công, chồng không phụ”, công lao gây dựng
nền văn học đậm đà bản sắc dân tộc ấy chẳng những được bạn đọc và các nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước ghi nhận mà còn được các nhà cách mạng Việt Nam
đánh giá rất cao.“Tự Lực Văn Đoàn - Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định với
Huy Cận - rất có công với văn học Việt Nam thông qua đổi mới cách viết
văn nói riêng và đổi mới nền văn học nước nhà nói chung”.
Vẫn theo Huy Cận,
các nhà cách mạng khác như Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp… đều có cùng một nhận định.
Mặt khác, tính đến ảnh hưởng sâu rộng cũng như tổ chức chặt chẽ của nó (có
tôn chỉ, nguồn tài chính riêng, cấp giấy chứng nhận thành viên, lập giải thưởng,
có cơ quan ngôn luận và thậm chí nhà xuất bản riêng), tôi cho rằng Tự Lực Văn
Đoàn xứng đáng được nhìn nhận như Hội nhà văn đầu tiên trong lịch sử văn học Việt
Nam hiện đại.
Lùi để tiến, hay như Xuân Diệu nói: "Hy sinh một
tiểu đội nhưng để thắng một trận đánh", bác tôi đành để cơ quan xuất bản
có thể nói là “giáo điều” lược bỏ những đề tặng Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo
khi làm Tuyển tập Thơ của ông, miễn làm sao thiên hạ biết Xuân Diệu vẫn ra sách
đều, vẫn tiếp tục hiện diện một cách tích cực trong đời sống xã hội.
Tuy
nhiên nếu cho rằng những lược bỏ đề tặng đã nói trên đơn thuần là "chiến
thuật", là việc làm miễn cưỡng của Xuân Diệu thì cũng không hẳn. Còn nhớ,
cả Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo đều tham gia Việt Nam Quốc dân đảng (hợp nhất
của Đại Việt dân chính đảng, Đại Việt quốc dân đảng và Việt Nam quốc dân đảng)
và vì vậy về mặt chính trị là xung khắc và sau Cách mạng Tháng 8 là xung đột với
một Xuân Diệu trong mặt trận Việt Minh.
Trong Lời giới thiệu của Tuyển tập Xuân
Diệu –Thơ (NXB Văn học 1983), Hoàng Trung Thông viết: “Người ta thường khen anh
(XD) dũng cảm đấu tranh với bọn Quốc dân đảng bằng những bài thơ đả kích".
Quả thật, bên cạnh Ngọn quốc kỳ ca ngợi nền Dân chủ cộng hòa, Xuân Diệu
liên tục “ra đòn” đánh lại cái đám “Việt Quốc” (Việt Nam Quốc dân đảng của Nguyễn
Tường Tam), Việt Cách (Việt Nam Cách mạng Đồng minh của Nguyễn Hải Thần) bằng
những Tổng bất… đình công, Một cuộc biểu tình, Vịnh cái cờ…
Không
nghi ngờ gì nữa, đây chính là sự khởi đầu của mạch văn “chính trị - quần chúng
hóa” của một Xuân Diệu “Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi/ Cùng đổ mồ
hôi, cùng sôi giọt máu/ Tôi sống với cuộc đời chiến đấu/ Của triệu người yêu dấu
gian lao”. Không những thế, ông còn chống lại các đảng phái ấy bằng cả "nắm
đấm" theo đúng nghĩa đen của từ này.
Còn nhớ, bác Diệu tôi nhiều khi dùng
“quân sự”, tức là dùng “nắm đấm” để giáo dục tôi, không có “oong, đơ” gì hết.
Nhưng một bận khi đang dùng “biện pháp mạnh” thì ông cảm thấy không còn hiệu quả
như trước vì lúc này tôi đang lớn vồng ở tuổi thành niên, lập tức ông hét lên:
“Mày đừng tưởng lớn rồi mà tao sợ. Ngày trước tao còn đánh nhau tay không với
Quốc Dân Đảng cơ”.
Lúc đó tôi nào có để ý gì đến đối tượng mà ông lấy ra so
sánh mà chỉ nhói trong tim: đâu phải tôi đã thực sự lớn, mà là bác tôi đã bắt đầu
yếu rồi. Và tôi đã khóc dù không mấy đau. Chỉ đến mãi sau này khi được những
người hoạt động cùng thời kể lại chuyện Xuân Diệu dừng xe đạp để đánh nhau với
một nhóm Việt Quốc, Việt Cách biểu tình chống cách mạng ngay trên đường Garnier
(nay là Đinh Tiên Hoàng), Hà Nội trong những ngày Tổng khởi nghĩa thì tôi mới
thấm thía chất "cách mạng" nơi "nắm đấm" của ông.
Kết
quả là ông bị nhừ đòn và phải thoát thân vì "tương quan lực lượng"
quá chênh lệch. "Con ngựa sắt" mà ông phải bỏ lại lúc đó sau này được
một người dân trả lại vì trên biển xe có đề “Xuân Diệu”. Cũng may, theo Huy Cận,
Xuân Diệu đã thoát được, nếu không chắc sẽ bị chúng bắt đem về thủ tiêu tại một
trong những “Hắc điếm” của chúng ở phố Ôn Như Hầu (nay là Nguyễn Gia Thiều),
“bót” Hàng Đậu hay phố Joffrin (nay là Lý Nam Đế)...
Vậy đó, Xuân Diệu không chỉ
"giáp lá cà" với phản cách mạng mà ông còn "vùng lên" chống
lại mọi biểu hiện tiêu cực ở con người dù đó là sự ngu dốt hay lười biếng. Để
nói ở Xuân Diệu cách mạng là thường trực! Hiểu được như thế thì việc
cơ quan xuất bản có lược bỏ đề tặng Nhất Linh - sau này là lãnh tụ Việt Quốc -
chắc không thật làm phiền lòng Xuân Diệu.
Tuy nhiên, Xuân Diệu không cực đoan:
bỏ lời đề tặng Nhất Linh là đủ để bày tỏ chính kiến của mình và ông giữ lại những
lời đề tặng Khái Hưng và Hoàng Đạo, điều này được thể hiện trong bản thảo cho
Tuyển Thơ của ông.
Thái độ đúng mực này của Xuân Diệu là nhất quán với quan điểm
của ông từ 1958 đối với các tác phẩm trước Cách mạng : “một số tác phẩm đã đạt
tới một mức nghệ thuật nào và đã có một khuynh hướng tiến bộ so với hoàn cảnh
thời đó, thì vẫn còn lại một giá trị văn học nghệ thuật. Hoàn toàn vứt cả, coi
nó là “dưới Zê-rô”, là không có quan điểm lịch sử trong phê bình” (8).
Quan điểm
ấy cũng được Huy Cận, người đồng chí của ông suốt cả cuộc đời, chia sẻ. Bản
thân thi nhân họ Cù cũng tặng Nhất Linh Áo Trắng, Hoàng Đạo Giấc Ngủ Chiều, Khái Hưng Buồn Đêm Mưa và Tràng Giang (bài này đề tặng Trần
Khánh Giư, tên thật của Khái Hưng) trong thi phẩm Lửa Thiêng.
Vậy mà trong
Tuyển tập Thơ Huy Cận xuất bản 1986, lời đề tặng ba thành viên trên của Tự Lực
cũng không còn. Tôi có hỏi lại bố tôi về chuyện này thì không chần chừ, ông khẳng
định ngay: “Với tư cách là người khởi xướng Tự Lực Văn Đoàn, Nhất Linh rất có
công với nền văn học nước nhà. Ông là một đồng nghiệp tốt, thân ái với mọi người.
Về mặt chính trị, Nguyễn Tường Tam trải qua ba giai đoạn. Giai đoạn đầu là yêu
nước theo hướng dân túy (populiste), giai đoạn thứ hai là chọn nhầm con đường cứu
nước qua việc dựa vào Nhật để chống Pháp (như cụ Phan Bội Châu), giai đoạn thứ
ba là phản động khi dựa vào Tàu Tưởng để chống lại Việt Minh. Như vậy, Nguyễn
Tường Tam là đối lập chính trị với Xuân Diệu và Huy Cận (9). Thật đáng tiếc, con
người yêu nước Nhất Linh đã đi nhầm đường để cuối cùng trở thành phản cách mạng”.
Rồi bố tôi nói thêm rằng ngay tại Đại hội Tân Trào năm 1944, Lê Đức Thọ đã bàn
với ông vận động Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo… đi với Việt Minh và chính cụ
Hồ Chí Minh ngay sau khi Cách mạng thành công cũng nói: “ Chú quen biết Nguyễn
Trường Tam (Bác đọc nhầm Tường thành Trường) thì chú vận động anh ta đi với
Cách Mạng, đi với Việt Minh thì tốt”. Nhưng những nhân vật trọng yếu ấy của Việt
Nam Quốc dân đảng đã “nguây ngẩy” từ chối vì cho rằng Việt Minh là “độc tài” ?!
Thậm chí báo Việt Nam do Khái Hưng chủ trương còn “mỉa” rằng nhà thơ Huy Cận ngồi
cô đơn ở Bắc Bộ phủ (lúc đó Huy Cận là Bộ trưởng Canh nông) để làm cái gì ?!
Suy cho cùng, có thể nôm na thế này, vợ chồng không hợp nhau thì ly dị, miễn những
đứa con - tác phẩm phải được nuôi cho đến nơi đến chốn và như đã thấy, Xuân Diệu
và Huy Cận đâu bỏ rơi "đứa con tinh thần” nào của mình!
Để kết luận, Huy Cận, người bạn nối khố của Xuân Diệu
và đồng nhân chứng của “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy” khẳng định với tôi rằng
cả Xuân Diệu lẫn ông luôn luôn biết ơn Tự Lực Văn Đoàn vì đã “khai sinh” ra họ
trên địa hạt văn chương, văn tài và nhất là cái tâm của Nhất Linh, Khái Hưng
cũng như của các thành viên sáng lập văn đoàn đối với sự nghiệp văn
học và văn hóa nước nhà là không thể phủ nhận.
Thậm chí cho đến tận giờ Huy Cận
vẫn từ chối khái niệm “tan” khi nói về sự chấm dứt hoạt động của Văn Đoàn. “Sau
khi báo Ngày nay bị chính quyền thưc dân đóng cửa vào cuối năm 1939 do những quan
điểm chính trị có thể nói rất tiến bộ của nó như đòi cho người Việt Nam quyền
được tự do, bình đẳng với người Pháp, phản đối sưu cao thuế nặng… Khái Hưng,
Hoàng Đạo, Nguyễn Gia Trí bị Pháp bắt vào năm 1941, Nhất Linh lẩn trốn do hoạt
động chính trị thân Nhật chống Pháp, Thế Lữ đi lánh - ông giải thích - không kể
Xuân Diệu đã vào Mỹ Tho từ đầu năm 1940, Thạch Lam mất năm 1942, Tự Lực Văn
Đoàn trong thực tế không còn thành viên hoạt động nữa”.
Và Huy Cận có lý vì
“tan” chỉ thích hợp với sự chấm dứt hoạt động bởi những lý do nội tại như mâu
thuẫn nội bộ hoặc nghiêm trọng hơn, do mâu thuẫn về lý tưởng nghệ thuật. Để nói
cái thực thể văn chương này dường như là trời sinh ra để dẫn nhập Thơ Mới với lịch
sử văn học nước nhà, vừa kịp định vị “trái đôi” Huy - Xuân ấy trên Thi Đàn dân
tộc thì cũng là lúc nó không tồn tại nữa./.
-------------------------
Chú thích
(1) Con trai nhà thơ Huy Cận, cháu ruột và
là con nuôi nhà thơ Xuân Diệu, Tiến sỹ Luật, Thạc sỹ Văn (Đại học Paris –
Pháp), họa sỹ, hội viên Hội Mỹ Thuật Việt Nam.
(2) Về khả năng họa sỹ Nguyễn Gia Trí là
thành viên sáng lập của TLVĐ, tôi (CHHV) sẽ trình bày trong một nghiên cứu
khác.
(3) Nghệ sỹ nhân dân Song Kim, tên thật là
Phạm Thị Nghĩa, sinh năm 1913, sống với Thế Lữ từ năm 1935 và đến cuối năm 1938
thì kết hôn với thi sỹ. Sau ngày cưới, Thế Lữ - Song Kim ở tại nhà Thạch Lam ở
làng Yên phụ ven bờ Hồ Tây cho đến khi nhà văn mất vào năm 1942 vì bệnh lao. Hiện
Song Kim sống tại 50 Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hà Nội.
(4) Cuốn Văn học lãng mạn Việt Nam
(1930 -1945) - NXB Văn học 2002 (tr. 241) và một số tài liệu khác
cho rằng Ngày Nay kế tục Phong Hóa sau khi Phong Hóa bị đóng cửa vào năm 1936.
Trong thực tế hai tờ báo song song tồn tại từ năm 1935 là khi Ngày Nay ra đời
cho đến năm 1936 là khi Phong Hóa bị đóng của vì ở “en tête” của giấy viết thư
của Tự Lực Văn Đoàn có ghi: Phong Hóa – 80 Avenue Grand – Bouddha (Quán Thánh)
và Ngày Nay – 55 Rue des Vermicelles (Hàng Bún). Lý do của sự song hành nói
trên là do Nhất Linh cảm thấy trước sau Phong Hóa với nội dung đả thực bài phong
rõ rệt sẽ bị chính quyền thực dân đóng cửa nên ra Ngày Nay để dự phòng.
(5) Theo Tú Mỡ (Trong bếp núc của Tự Lực
Văn Đoàn – Tạp chí văn học số 5-6/1988 và só 1/1989) và các tác giả Lê Thị Đức
Hạnh, Vu Gia… thì ngoài Xuân Diệu TLVĐ còn kết nạp thêm Trần Tiêu, em ruột Khái
Hưng (tức Trần Khánh Dư). Tuy nhiên mỗi lần nói với tôi (CHHV) về TLVĐ, cả Xuân
Diệu và Huy Cận chưa bao giờ nhắc đến Trần Tiêu. Do có sự khác biệt này mà tôi
đã tiến hành một cuộc khảo cứu với kết quả là Trần Tiêu không phải là
thành viên TLVĐ. Thực vậy, ngoại trừ loại “Sách Hồng”, từ 1936 NXB Đời Nay của
TLVĐ mỗi khi in tác phẩm của các thành viên TLVĐ thì dưới tên tác giả luôn có
dòng chữ “Trong Tự Lực Văn Đoàn” hoặc “Tự Lực Văn Đoàn”, điều này có thể thấy
rõ trên các tác phẩm của Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Thế Lữ và
Xuân Diệu (Dòng nước ngược của Tú Mỡ in năm 1934) trong khi không có
tác phẩm nào của Trần Tiêu do NXB Đời Nay in như Con trâu (1940), Chồng con
(1941) có dòng chữ này.
(6) Tế Hanh – Cần công bằng ghi nhận phần
đóng góp của Tự Lực Văn Đoàn (Hà Minh Đức thực hiện) – NXB Giáo dục 2007.
(7) Huy Cận – Hồi ký song đôi – Tập 2 – NXB
Hội Nhà văn 2003)
(8) Xuân Diệu – Những bước đường tư tưởng của
tôi – NXB Văn hóa 1958
(9) Từ 1939, Huy Cận, thành viên Ban lãnh đạo
Tổng hội sinh viên (toàn Đông Dương) đã cùng với Dương Đức Hiền, Chủ tịch Tổng
hội và là người có quan hệ mật thiết với Đảng Cộng sản, đấu tranh chống khuynh
hướng thân Nhật trong thanh niên, sinh viên. Năm 1941, Huy Cận tham gia Việt
Minh “đánh Pháp đuổi Nhật” và năm 1943, Xuân Diệu tham gia Việt Minh ở Hà Nội
ngay sau khi từ chức Tham tá nhà Đoan ở Mỹ Tho.
Cù Huy Hà Vũ
24 Điện Biên Phủ,
Hà Nội;
ĐT: 2315272, 0904350187;
Email:
havuvietstyle@yahoo.com
Trí Nhân Media
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét