30-8-2012
Trong lịch sử tranh đấu giành độc
lập của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ hai mươi, hai lần nước ta đã được
các nhà cầm quyền đương thời chính thức tuyên bố độc lập.
Lần thứ nhất vào
ngày 11 tháng 3 năm 1945 bởi Hoàng Đế Bảo Đại và lần thứ hai vào ngày 2 tháng 9
năm 1945 bởi Chủ tịch Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Hồ Chí Minh.
Hai lần cả thảy, nhưng đa số người Việt chỉ biết hay chỉ được học có một lần. Họ
chỉ biết hay chỉ được học bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9 mà
không biết hay không được học bản tuyên ngôn của Bảo Đại ngày 11 tháng 3.
Lịch
sử do đó chỉ được biết có một nửa thay vì toàn vẹn. Bài này nhằm bổ khuyết cho
tình trạng thiếu sót đó, đồng thời phân tích nội dung và ý nghĩa của từng bản.
Hoàn cảnh được công bố
Bản tuyên ngôn độc Lập của Hoàng
Đế Bảo Đại được công bố ngày 11 tháng 3 năm 1945, hai ngày sau khi Nhật đảo
chính Pháp ở Đông Dương và sau một thời gian dài hơn bốn năm, từ tháng 9 năm
1940, sau khi quân Nhật vào phần đất này của Đông Nam Á, gần năm tháng trước
khi Nhật Bản đầu hàng và Thế Chiến Thứ Hai kết thúc.
Trong thời gian này Việt Nam bị sống
dưới sự cai trị của cả người Pháp, từ sau khi Hòa Ước 1884 được ký kết, lẫn người
Nhật, từ ngày 22 tháng 9 năm 1940, với một hậu quả khủng khiếp là Trận Đói
Tháng Ba Năm Ất Dậu. Hoàn cảnh này đã làm cho không chỉ riêng những người Cộng
Sản, vốn chủ trương đánh đổ chế độ quân chủ để cướp hay giành chính quyền (chữ
của chính người Cộng Sản) để từ đó thực thi cách mạng vô sản mà luôn cả những
người không những không có cảm tình với chế độ quân chủ đương thời mà còn chủ
trương lật đổ chế độ này để thay thế bằng một chế độ dân chủ, không nhìn nhận
giá trị đích thực của của bản tuyên ngôn này.
Lý do là vì Bảo Đại luôn luôn bị
coi như một ông vua bù nhìn, trước kia trong tay người Pháp và lúc đó
trong tay người Nhật. Theo họ trước kia người Pháp bảo sao, ông làm vậy và sau
đảo chính 9 tháng 3 năm 1945, người Nhật bảo ông tuyên bố độc lập thì ông tuyên
bố độc lập, thế thôi. Người ta hiểu hay được học đơn giản như vậy. Nền độc lập
mà Bảo Đại tuyên bố theo họ chỉ là do người Nhật ban cho và bản tuyên ngôn của
ông chẳng có một giá trị gì trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của người Việt.
Thực chất của nó chỉ là “sự
tuyên bố công khai việc thay thầy đổi chủ của triều đình Bảo Đại”[1] không hơn không kém. Nhiều người lại viện
lý do là nền độc lập này chưa hoàn toàn. Sự thực không đơn giản như vậy. Người
Nhật có lý do làm đảo chính lật đổ người Pháp và Bảo Đại có lý do phải chấp nhận
yêu cầu của người Nhật tuyên bố Việt Nam độc lập. Lý do của Bảo Đại đã được ông
giải thích khi tiếp kiến Trần Trọng Kim và cố gắng thuyết phục ông này chấp nhận
làm thủ tướng đầu tiên của chính phủ Việt Nam độc lập. Nguyên văn câu nói của Bảo
Đại được Trần Trọng Kim kể lại như sau:
“Trước kia nước Pháp giữ quyền bảo
hộ nước ta, nay đã không giữ được nước cho ta, để quân Nhật đánh đổ, vậy những
điều trong hiệp ước năm 1884 không có hiệu quả nữa, nên Bộ thượng thư đã tuyên
hủy hiệp ước ấy. Trẫm phải đứng vai chủ trương việc nước và lập chính phủ để đối
phó mọi việc.”[2]
Người ta cần phải nhớ là hơn mười
năm trước đó, sau khi du học từ Pháp về tới Huế được hai ngày, ngày tháng 10
tháng 9 năm 1932, Bảo Đại đã ra Dụ số 1 tuyên bố chấp chính và khẳng định chế độ
quân chủ của Nam Triều hủy bỏ Quy Ước 6 tháng 11 năm 1925 do Hội Đồng Phụ
Chính, đứng đầu là Tôn Thất Hân, ký với Toàn Quyền Đông Dương thời ông còn nhỏ
tuổi và đang du học bên Pháp, tước bỏ hầu hết các quyền hành còn lại của nhà
vua trừ các quyền có tính cách nghi lễ, ân xá, sắc phong, tế lễ…kèm theo nhiều
dụ khác nhằm thực hiện những cải cách qui mô trong nền hành chánh của chính phủ
Nam Triều, nhưng đã bị người Pháp ngăn cản và bị thất bại.
Đảo chính 9 tháng 3 năm 1945 và lời
yêu cầu tuyên bố độc lập của người Nhật dù gì đi chăng nữa cũng là điều vị
hoàng đế còn trẻ tuổi từ lâu mong đợi. Ngoài ra theo nhận định và giải thích nhằm
thúc đẩy Trần Trong Kim chịu khó lập chính phủ mới. Ông nói :
“Trước kia người mình chưa độc lập.
Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc lập hẳn, nhưng mình cũng phải tỏ ra có đủ tư
cách để độc lập. Nếu không có chính phủ thì người Nhật bảo mình bất lực, tất họ
lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy ông nên vì nghĩa
vụ cố lập thành một chính phủ để lo việc nước.”[3]
Hai tiếng “cơ hội” Bảo Đại dùng ở
đây cho ta thấy từ lâu ông đã mong có dịp này. Đồng thời ông cũng hiểu rằng nền
độc lập mà ông tuyên cáo “chưa phải độc lập hẳn”.” Chưa hết, tuyên bố
rồi ông còn nói tới nhu cầu “phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập” và
nhất là để tránh không cho người Nhật “lập cách cai trị theo thể lệ nhà
binh rất hại cho nước ta”, một sự e ngại chỉ có những người có kiến thức về
lịch sử và chính trị học mói biết được.
Ngoài ra những tiếng “rất có hại
cho nước ta” cũng cho người ta thấy đối tương của hành động tuyên cáo độc
lập của ông không phải là ngôi vua mà là đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam,
đất nước của ông và thần dân của ông. Cái nhìn và quan điểm này cũng như sự hiểu
biết của ông về tình hình thế giới và thế tất bại của người Nhật về sau đã được
ông nói rõ trong hồi ký của ông. Riêng đối với người Nhật, ông đã không tin tưởng
ở họ cũng như chiêu bài Đại Đông Á của họ. Nói cách khác Bảo Đại ở vị thế phải
chấp nhận nhập cuộc dù ông hiểu rõ sự phức tạp của vấn đề. Phần khác như ông
cũng nói tới trong hồi ký của ông: Độc lập là ước mơ của tất cả mọi người Việt
Nam thời đó.
Nội dung bản Tuyên ngôn
Đây là một bản văn tương đối ngắn
so với những bản văn cùng loại, nhằm ba mục tiêu chính yếu là hủy bỏ một hòa ước
Triều Đình Huế trước kia đã ký với nước Pháp, tuyên bố Việt Nam độc lập, đứng
vào khối Đại Đông Á trong chương trình phát triển chung, đồng thời bày tỏ sự
tin tưởng vào “lòng thành” của nước Nhật với nguyên văn như sau:
“Cứ tình hình chung trong thiên hạ,
tình thế riêng cõi Đông Á, chính phủ Việt Nam tuyên bố từ ngày này
điều ước bảo hộ với nước Pháp bãi bỏ và nước Nam khôi phục quyền độc lập.
“Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến
triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập và theo như lời tuyên ngôn chung của Đại
Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vương chung.
“Vậy Chính Phủ Việt Nam một lòng
tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc, quyết chí hợp tác với nước Nhật, đem hết
tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên.[4]
Bản Tuyên Ngôn được đề ngày 11
tháng Ba năm 1945 tức ngày 27 tháng Giêng năm Bảo Đại thứ 20 được Bảo Đại ký
tên với sáu thượng thư phó thự. Sáu vị thượng thư gồm có: Phạm Quỳnh, bộ Lại,
Hồ Đắc Khải, bộ Hộ, Ưng Úy, bộ Lễ, Bùi Bằng Đoàn, bộ Hình, Trần Thanh Đạt, bộ Học,
và Trương Như Định, bộ Công. Theo Bảo Đại đây là lần đầu tiên trong lịch sử một
văn kiện được ký bởi nhà vua và tất cả các nhân vật quan trọng nhất trong triều
đình.[5]
Đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập này của
Bảo Đại, người ta cần chú ý tới những chi tiết sau đây:
Thứ nhất: Bản tuyên ngôn được mở
đầu bằng quyết định hủy bỏ một điều ước đã được ký kết trước đó mà vì tình hình
biến chuyển, một trong hai phía đã không tôn trọng những gì mình đã ký kết hay
không thực thi được những gì mình đã ký kết trong một sinh hoạt quốc tế. Điều ước
bị hủy bỏ ở đây là Hòa Ước Giáp Thân được ký kết giữa Triều Đình Huế và người
Pháp ngày 6 tháng 6 năm 1884, đặc biệt hai điều khoản của hòa ước
này là điều khoản thứ nhất, theo đó Việt Nam công nhận và chấp nhận
Quyền Bảo Hộ của nước Pháp và điều khoản thứ mười lăm, theo đó nước Pháp cam kết
bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ của các xứ do vua Việt Nam cai trị và bảo
vệ nhà vua chống lại những sự xâm nhập từ bên ngoài và những cuộc nổi
loạn từ bên trong…[6]
Sự hủy bỏ này phải được hiểu là
do người Pháp bất lực không bảo vệ được Việt Nam trước sự bành trướng của quân
đội Nhật và cuối cùng là chính người Pháp đã bị người Nhật lật đổ trong cuộc Đảo
Chính ngày 9 tháng 3 năm 1945. Sự hủy bỏ này cũng có tính cách đơn phương từ
phía Bảo Đại với tư cách là người kế vị chính thống của Triều Đình Nhà Nguyễn
căn cứ vào những gì đã xảy ra vào thời điểm này.
Điểm cần được lưu ý ở
đây là từ ngữ hòa ước trong văn kiện này được dùng theo số ít, trong tiếng Việt,
không có chữ “các” hay “những” đi kèm và trong tiếng Pháp không có chữ “s” theo
sau. Điều này có nghĩa là bản tuyên cáo chỉ hủy bỏ hòa ước bảo hộ tức
Hòa Ước Giáp Thân 1884 mà thôi thay vì hủy bỏ tất cả các hòa ước đã được ký kết
trước đó. Đó là các Hòa Ước Nhâm Tuất 1862 và Hòa Ước Giáp Tuất 1874 liên hệ tới
xứ Nam Kỳ theo đó xứ này đã bị nhường dứt cho người Pháp và trở thành thuộc địa
của họ, không còn thuộc quyền cai trị của Vua và Triều Đình Huế nữa.
Vấn đề
thâu hồi xứ Nam Kỳ do đó chưa được giải quyết ngay nhưng đã trở thành mối bận
tâm và một phần hành quan trọng của chính Bảo Đại ngay từ buổi nhà vua tiếp kiến
Đại Sứ Nhật Yokoyama và của Chính Phủ Trần Trọng Kim trong gần suốt thời gian
chính phủ này tồn tại. Xứ Nam Kỳ chỉ được người Nhật trao trả trong những ngày
cuối của chính phủ này và chỉ chính thức trở về với lãnh thổ quốc gia Việt Nam
ngót năm năm sau, vào giữa tháng 6 năm 1949, và do Bảo Đại với tư cách Quốc Trưởng
tiếp nhận từ tay người Pháp. Đây cũng là một sự kiện ít người biết đến.
Hai chữ “độc lập” đã được sử dụng (nước Việt Nam khôi phục quyền độc
lập) và nhà vua đã dùng danh từ tuyên ngôn độc lập (proclamation
d’indépendance) khi nói tới văn kiện này trong hồi ký của ông.[7]
Thứ hai: ”Nước Việt Nam sẽ gắng
sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập….giúp cho cuộc thịnh vượng
chung.” Câu này xác định phương thức hoạt động nhằm thực hiện tư cách
độc lập (tự phát triển như một quốc gia độc lập không phụ thuộc vào nước ngoài
cho xứng đáng một quốc gia độc lập) và thế đứng của Việt Nam trên trường quốc tế
(tự coi mình là một phần tử Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh
vượng chung).
Nên để tới khẩu hiệu Châu Á của Người Á do người Nhật đưa ra
trong thời gian này, một khẩu hiệu hàm chứa sự độc lập của các nước Á Châu lúc
đó còn là thuộc địa của các đế quốc Âu Châu. Đây cũng là một cách nói trước một
cách khéo léo để ngăn chặn trước sự can thiệp vào nội tình Việt Nam của người
Nhật.
Thứ ba: “Chính phủ Việt Nam
một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc…”. Câu này nhằm buộc
chặt lời hứa của người Nhật bằng cách nhấn mạnh vào sự trung thành với những gì
họ đã nói, với quan niệm trung thành như một truyền thống chung của các dân tộc
Á Đông.
Thứ tư: “quyết chí hợp tác
với nước Nhật đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên.” Mục
đích như trên là mục đích gì? Phải hiểu mục đích này bao gồm hai phần là “tự
tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập” và “giúp cho cuộc
thịnh vương chung” như là một phần tử của khối Đại Đông Á chứ không
phải cho Đế Quốc Nhật Bản hay rõ hơn nữa là cho riêng nước Nhật.”
Nói cách khác, đây là một bản văn
tuy ngắn ngủi, cô đọng nhưng rất quan trọng vì nó vừa mang tính cách pháp lý,
có liên hệ tới nhiều văn kiện ngoại giao khác đã được hình thành trước
đó, vừa biểu lộ chủ trương của một quốc gia được trao trả độc lập trong một
hoàn cảnh không nhận không được, vô cùng tế nhị và phức tạp vào
lúc tình hình thế giới biến chuyển quá nhanh và hoàn toàn bất lợi
cho quân đội và quốc gia đảm nhận sự trao trả nền độc lập này. Mỗi điều nói ra,
mỗi chữ được viết đều đòi hỏi người soạn thảo phải vô cùng thận trong và ước
tính kỹ càng.
Ai là tác giả của bản tuyên ngôn
này?
Người được nói đến nhiều nhất là
Phạm Quỳnh, lúc đó đang giữ chức thượng thư bộ lại. Điều này có nhiều phần đúng
nếu người ta để ý tới khả năng nghị luận và viết văn, viết báo kèm theo sự hiểu
biết và kinh nghiệm của một học giả, một người làm báo, và sau đó là một ngự tiền
văn phòng tổng lý của nhà vua cũng như thượng thư bộ lại trước đó. Nó cũng được
Phạm Khắc Hòe, đương thời là ngự tiền văn phòng tổng lý của Bảo Đại, trong hồi
ký của ông này xác nhận.[8] Ngoài ra ta không còn một tài liệu nào
khác nói về sự kiện này.
BẢN TUYÊN NGÔN CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH
PHỦ LÂM THỜI VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA HỒ CHÍ MINH
Bản tuyên ngôn này đã được Hồ Chí
Minh một mình soạn thảo, một mình đứng tên và đọc tại Quảng Trường Ba Đình ở Hà
Nội vào buổi chiều ngày 2 tháng Chín năm 1945, ngót năm tháng sau bản tuyên
ngôn của Bảo Đại, hơn hai tuần lễ sau khi Nhật Bản đầu hàng, mười ba ngày sau
khi Việt Minh cướp được chính quyền ở Hà Nội và hai ngày sau khi Bảo Đại chính
thức thoái vị.
Vì được công bố sau bản tuyên ngôn của Bảo Đại, sau khi người Nhật
đã đầu hàng cũng như chế độ bảo hộ của người Pháp đã bị người Nhật lật đổ trước
đó, bản tuyên ngôn này đã bị nhiều người cho là thừa, không cần thiết, chưa kể
tới sự kiện là chính phủ mới do Hồ Chí Minh thành lập là kế vị chính phủ Nam
Triều do Bảo Đại thoái vị nhường cho dựa theo chiếu thoái vị của Bảo Đại. Chiếu
này đã được Hồ Chí Minh và chính phủ mới của ông chấp nhận.
Chính Phủ Lâm Thời của nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong những điều kiện này đương nhiên kế tục những gì Bảo
Đại và chính phủ Trần Trọng Kim đã làm trước đó, trong đó có Bản Tuyên Ngôn Độc
Lập ngày 11 tháng 3 năm 1945.
Lập luận như vậy là hoàn toàn hợp lý đứng trên
phương diện công pháp quốc tế. Một lập luận đơn giản và hoàn toàn dễ
hiểu. Câu hỏi được đặt ra là Hồ Chí Minh, và những cộng sự viên của ông, khi
đưa ra bản tuyên ngôn của mình có biết là trước đó Bảo Đại đã làm công việc này
rồi hay không? và biết như vậy tại sao ông lại còn làm lại việc đó một lần nữa?
Cho
câu hỏi thứ nhất, câu trả lời là chắc chắn có; Hồ Chí Minh chắn phải biết là Bảo
Đại trước đó đã tuyên cáo hủy bỏ hòa ước bảo hộ 1884 rồi. Nhưng ông vẫn làm lại
công việc này vì ông có nhu cầu phải làm. Những nhu cầu đó là những nhu cầu gì?
Thứ nhất là vì từ lâu toàn dân ai nấy đếu khao khát được thấy nước
nhà độc lập, đúng như Bảo Đại đã viết trong hồi ký của ông, độc lập là ước mơ của
mọi người dân Việt [9], cũng như nó được phản ảnh ở khắp nước ngay
trước và sau ngày 2 tháng 9 năm 1945.
Nói tới độc lập vào lúc đó là gõ
đúng tần số của bất cứ một người dân Việt Nam nào từ đó đem lại công lao và
thanh thế cho người chính thức công bố ra điều đó. Thứ hai là cho tới ngày 2
tháng 9 năm 1945, cái tên Hồ Chí Minh hoàn toàn xa lạ ở trong nước cũng như ở
ngoài nước.
Võ Nguyên Giáp, một trong những cộng sự viên thân cận nhất của Hồ
Chí Minh trong thời gian này, đã viết trong hồi ký của mình rằng:
“Ba tiếng HỒ CHÍ MINH không bao
lâu đã vang đi khắp thế giới với những truyền thuyết mà người ta thường dành
cho các bậc vĩ nhân. Nhưng vào ngày hôm ấy, cái tên mới của Bác vẫn còn mới lạ
với nhiều đồng bào. Số người biết Bác chính là đồng chí Nguyễn Ái Quốc khi đó
không nhiều.”[10]
Ngay vua Bảo Đại ngày 23 tháng 8
năm 1945, khi nhận được điện tín của của các ông Nguyễn Xiển, Nguyên Văn Huyên,
Ngụy Như Kon-Tum và Hồ Hữu Tường nhân danh Ủy Ban Nhân Dân Cách mạng, yêu cầu
nhà vua thoái vị nhường quyền lãnh đạo quốc gia cho Chính Phủ Nhân Dân Cách mạng
với chủ tịch là “Cụ Hồ Chí Minh” đã không biết Hồ Chí Minh là ai.
Còn
Phạm Khắc Hòe, người được Việt Minh gài vào cạnh nhà vua cũng không biết nốt,
phải chạy đi hỏi Tôn Quang Phiệt, một đảng viên Cộng Sản, rồi Đào Duy Anh nhưng
Tôn Quang Phiệt đi vắng và Đào Duy Anh lục lọi, truy tìm các tài liệu,
sách vở ông có nhưng cũng không ra tên này. Cuối cùng Vũ Văn Hiền, ở Bắc về mới
xác nhận Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc.[11]
Tuyên bố Việt Nam độc lập đối với
Hồ Chi Minh vào thời điểm này do đó là cách tự giới thiệu mình tốt nhất và hữu
hiệu nhất vói toàn thể đồng bào và để được nhìn và được chấp nhận như là lãnh tụ
đầu tiên đã mang lại được độc lập cho tổ quốc và cho toàn dân Việt Nam, một nhu
cầu tối cần thiết, dầu rằng nền độc lập này hoàn toàn không phải do ông hay do
Mặt Trận Việt Minh tạo ra mà là do những biến cố khác của lịch sử, trong đó
quan trọng nhất là Đảo Chính 9 tháng Ba năm 1945, trong đó người Nhật đã loại bỏ
người Pháp, kèm theo là bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoàng Đế Bảo Đại nói trên,
và cuối cùng là sự bại trận sau này của người Nhật.
Chúng ta cũng cần để ý là đối
với đa số người Việt Nam thời đó, ngày 2 tháng 9 là Ngày Độc Lập, đúng như Nguyễn
Hữu Đang, người được Hồ Chí Minh chỉ định tổ chức ngày này, gọi qua
các văn thư chính thức ông đã gửi cho các cơ quan liên hệ, trong đó có thư gửi
cho Thị Trưởng Hà Nội [12] và theo bìa in bản tuyên ngôn của bản đầu
tiên năm 1945, do Chủ Tịch Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Hồ Chí Minh đọc
trong Ngày Độc Lập”[13].
Nhưng đối với Hồ Chí Minh ngày 2
tháng 9 còn có một ý nghĩa quan trọng hơn nữa. Đó là “ngày khép
lại cuộc Cách mạng tháng Tám, và khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
hòa”, theo lời ông nói với Nguyễn Hữu Đang, “Chú phải nhớ…[14] Tại sao vậy? Tại vì Hồ Chí Minh phải làm
chuyện này trước khi quân Đồng Minh kéo vô Việt Nam, đặc biệt là thủ đô Hà Nội,
nhằm đặt họ trước một sự đã rồi, không thể đảo ngược đươc..
Sự kiện vua Bảo Đại
thoái vị được nhắc tới và câu “Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng, kiên
quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp” là nhằm vào mục tiêu này. Một
lý do khác cũng được người ta nhắc tới là cho mãi đến ngày 2 tháng 9 năm 1945
nên độc lập của nước Việt Nam mới thực sự là hoàn toàn. Lý do này tuy nhiên
cũng còn cần phải được xét lại vì nó không hoàn toàn đơn giản ở thời điểm này
và các thời điểm sau đó. Những lý do liên hệ tới nhu cầu của cá nhân Hồ Chí
Minh và Đảng Cộng Sản đương thời vẫn là chính.
Nội dung bản Tuyên Ngôn
Bản Tuyên Ngôn Độc lập của Hồ Chí
Minh, vì được phổ biến rộng rãi và hầu như được coi là duy nhất gắn liền với
ngày 2 tháng 9, ngày Quốc Khánh của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa rồi Cộng Hòa Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam, nên đã được nhiều người đọc, phân tích và tìm hiểu. Trong
phần này người viết chỉ nêu lên những gì ít được mọi người nhắc hay để ý đến mà
thôi.
Trong khi Tuyên Cáo của Bảo Đại
đơn giản chỉ là một bản văn thuần túy pháp lý nhằm hủy bỏ hòa ước bảo hộ mà triều
đình Huế đã ký trước đó căn cứ vào sự bất lực của người Pháp, vì người Pháp đã
không giữ được cam kết ghi trong điều khoản thứ nhất và điều khoản thứ mười lăm
của hòa ước này, mà ít nhằm tới một quần chúng hay quốc tế, thì bản Tuyên Ngôn
của Hồ Chí Minh nhằm vào toàn thể người Việt qua lời mở đầu “Hỡi đồng
bào cả nước…”. Tuy nhiên ở những đoạn cuối tác giả lại nhắm vào các nước Đồng
Minh.
Điều này phải tinh ý người ta mới nhận ra được. Về tư cách, Bảo Đại nhân
danh Hoàng Đế Việt Nam, người đứng đầu của một quốc gia độc lập đã tồn tại từ
trước khi người Pháp xâm lăng và là người kế thừa chính thống của các vua Nhà
Nguyễn, thì Hồ Chí Minh đã nhân danh “Lâm Thời Chính Phủ của nước Việt Nam mới.”
Mới
là vì đến ngày đó chính phủ này mới chính thức được ra mắt trước quốc dân. Lời
văn do đó phản ảnh hai tư cách của hai bản chất con người khác nhau. Một người
là hoàng đế kế thừa chính thống của một triều đại đã trị vì một quốc gia từ hơn
một trăm năm trước dù cho là chỉ còn hư vị; người kia là lãnh tụ của một phong
trào cách mạng vừa chủ trương chống Pháp, vừa chủ trương chống Nhật và lật đổ
chế độ quân chủ để giành chính quyền. Văn phong trong bản tuyên ngôn của Bảo Đại
là văn phong bình thường của người cầm quyền cao nhất nước; còn văn phong của Hồ
Chí Minh mang tính cách kêu gọi và ở một mức độ nào đó có tính cách bình dân, kể
lể dài dòng và nhất là xách động.
Mở đầu cho bản tuyên ngôn, Hồ Chí
Minh đã trích dẫn một số câu trong phần đầu của Bản Tuyên Ngôn
Độc Lập của người Mỹ và một câu trong Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền
và Dân Quyền của Cách Mạng Pháp. Sự trích dẫn này, vào lúc mà sự hiểu biết
của quần chúng Việt Nam còn thấp kém, đặc biệt là về lịch sử Hoa Kỳ và thế giới,
chắc chắn không nhằm vào quần chúng người Việt mà nhằm vào người Mỹ và người
Pháp.
Lý do là Hồ Chí Minh như là một đảng
viên Cộng Sản Quốc Tế chắc chắn đã hiểu hơn ai hết là người Mỹ vào thời điểm
này đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong chính tình ở Á Châu, trong đó
có Việt Nam.
Được nguời Mỹ công nhận là coi như làm chủ được chính quyền. Hiểu
được như vậy, ngay từ khi còn ở chiến khu Hồ Chí Minh khi tiếp xúc với người Mỹ
đã yêu cầu họ cung cấp cho ông một bản Tuyên Ngôn Độc Lập của nước Mỹ, đồng thời
nói về lịch sử nước Mỹ như là một cách để chinh phục cảm tình của họ.
Đó chính là
lý do tại sao ngày 29 tháng 8 năm 1945, hai ngày trước khi Hồ Chí Minh tuyên đọc
Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của ông, lúc 10 giờ 30 sáng, ông đã cho xe tới chở Đại
Úy Archemedes L. A. Patti, trưởng nhóm tình báo OSS mới tới Hà Nội không lâu, đến
gặp ông. Mục đích của cuộc gặp mặt theo Hồ Chí Minh không phải là để bàn về
chuyện người Tàu mà là để nói về những gì ông đã làm vài ngày trước đó (buổi họp
ngày 27 về Chính Phủ Lâm Thời) và ít ngày sau đó (ngày 2 tháng 9 đã được chọn
là Ngày Độc Lập, Hồ Chí Minh sẽ tuyên bố Việt Nam độc lập và giới thiệu thành
phần chính phủ lâm thời) với Patti như là người đầu tiên được biết.
Quan trọng hơn hết Hồ Chí Minh đã
cho Patti coi bản nháp của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của ông bằng tiếng Việt với
những sửa chữa chằng chịt mà Pattti không đọc được và chỉ hiểu sơ sơ qua lời một
thông ngôn.[15]Vì chỉ nhằm mục tiêu lôi cuốn sự chú ý và cảm
tình của người Mỹ, Hồ Chí Minh đã không đi xa hơn nữa và rất có thể ông cũng
không hiểu rõ hơn hay cố tình không hiểu sự khác biệt trong quá trình giành độc
lập của mười ba thuộc địa của người Mỹ vào cuối thế kỷ XVIII và của nước Việt
Nam thời năm 1945.
Vì vậy ông đã áp dụng quan điểm của người Mỹ về quyền bình đẳng,
quyền được sống tự do và mưu cầu hạnh phúc của mọi-người-như-là-những-cá-nhân-riêng-lẻ
vào trường hợp chung của cả nước Việt Nam như một-quốc-gia-đòi-quyền-độc-lập, một
cách gượng ép hay ít ra là suy luận theo quan điểm chủ quan của mình bằng lối
loại suy với dụng ý riêng. Cũng vậy với những gì ông trích dẫn từ bản Tuyên
Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách Mạng Pháp.
Phần kế tiếp, Hồ Chí Minh lên án
người Pháp và người Nhật, đồng thời ông kể công cho Việt Minh: “Trước ngày
mồng 9 tháng 3, đã bao lần Việt minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống
Nhật…”, sau đó “đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua
biên thùy, lại cứu nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật
và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ” và kết
luận rằng “Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt-nam từ tay Nhật, chứ
không phải từ tay Pháp”.
Điều như người viết đã nói ở trên là không đúng sự
thật. Sự thật là Chính Phủ Bảo Đại – Trần Trọng Kim đã lấy lại được toàn thể nước
Việt Nam từ Bắc chí Nam, bao gồm luôn cả xứ Nam Kỳ từ trong tay người Nhật, trước
khi người Nhật đầu hàng và Việt Minh đã cướp chính quyền từ trong tay của chính
phủ Bảo Đại -Trần Trọng Kim trong những ngày 17 và 19 tháng 8 năm 1945 sau đó,
sau khi Nhật đã đầu hàng, nói cách khác sau ngày 15 tháng 8 năm 1945.
Lý do là
vì Việt Minh “Việt Minh chủ trương khác”, nói theo Phan Anh, Bộ Trưởng
Thanh Niên trong Chính Phủ Trần Trọng Kim và sau này là Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng
trong Chính Phủ Liên Hiệp của Hồ Chí Minh[16].Trong những đoạn này Hồ Chí Minh đã dùng các
từ ngữ ta hay “dân ta” hay “đất nước ta”, nhưng mục đích không nhằm vào
người Việt Nam mà vào người Pháp. Ông đã kể công với người Pháp dự trù cho việc
họ trở lại sau này.
Phần cuối cùng của bản văn, từ “Bởi
thế cho nên…” cho đến hết, lời văn cho người ta thấy Hồ Chí Minh không hướng về
người Việt mà về cả thế giới. Trong phần này ông xưng là “chúng tôi, Lâm thời
Chính phủ, đại biểu cho toàn dân Việt -nam “ để tuyên bố thoát ly hẳn quan
hệ với Pháp, kêu gọi các nước Đồng Minh công nhận quyền độc lập của dân Việt-nam…
Phần
này Hồ Chí Minh thay vì nói về quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc của mọi – người – như – những – cá – nhân do Tạo Hóa ban cho, những quyền
phải hiểu là tự nhiên ai cũng có, đã nói về quyền hưởng tự do và độc
lập của cả nước. Đây là một lập luận có tính cách cưỡng ép, hoàn toàn không
đúng với tinh thần của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Người Mỹ và nhất là
của bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách mạng Pháp mà danh
xưng của nó đã nói lên một cách rõ ràng: Nhân Quyền và Dân Quyền, không thể
hiểu sai được. Độc lập của một dân tộc không phải luôn luôn đồng nghĩa với tự
do, dân quyền và nhân quyền của mỗi một cá nhân người dân như những thành phần
của dân tộc ấy.
Không những thế, thay vì coi những
quyền này là do Tạo Hóa ban cho, Hồ Chí Minh lại lý luận là vì dân tộc Việt Nam
là “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay,
một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc
đó phải được tự do! Dân tộc ấy phải được độc lập!”.
Lý luận như vậy người
ta phải hiểu, theo Hồ Chí Minh, rằng những dân tộc không gan góc chống lại những
thế lực đè nén, áp bức mình và không gan góc đứng về phe Đồng Minh, chống
phát-xít là không đáng được tự do, độc lập.
Cũng vậy, với các quyền độc lập, tự
do và mưu cầu hạnh phúc của con người do Thượng Đế ban cho như là những cá
nhân trong xã hội. Chính vì vậy Luật Sư Trần thanh Hiệp, khi được Đài Á Châu Tự
Do phỏng vấn ngày 2 tháng 9 năm 2007, đã có lý khi ông gọi bản tuyên ngôn của Hồ
Chí Minh này là “một bản tuyên ngôn phi nhân quyền”[17] dù cho là nó đã được chính tác giả của
nó trích và soạn thảo theo tinh thần của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của người Mỹ và
bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của người Pháp.
Nhưng dù nói
thế này hay thế khác sự kiện này đã phản ảnh chủ trương giai đoạn, không phải là
mục tiêu cuối cùng của những người Cộng Sản Việt Nam mà Hồ Chí Minh ở đây là một
trường hợp điển hình.
Về thời gian soạn thảo, nhiều người
cho rằng Hồ Chí Minh chỉ có ít ngày sau khi ông từ chiến khu của Việt Minh về
Hà Nội, trong khi ông còn phải bận rộn với nhiều vấn đề cấp bách
khác. Điều này không đúng vì trước đó từ lâu, như đã nói ở trên, khi
tiếp xúc với một sĩ quan người Mỹ, ông nhờ người này kiếm cho ông một bản Tuyên
Ngôn Độc Lập của người Mỹ rồi.[18] Nói cách khác, Hồ Chí Minh đã nghĩ tới
và đã thai nghén bản tuyên ngôn của ông từ lâu chứ không phải chỉ ít ngày trước
ngày 2 tháng 9 năm 1945. Do đó những gì ông nói tới, những từ ngữ ông dùng đều
được cân nhắc kỹ càng và đều có dụng ý riêng với những mục tiêu riêng mà chỉ
sau này phải phân tích kỹ, đối chiếu kỹ và có thể sau này khi mọi việc liên hệ
đã xảy ra rồi, người ta mới có thể hiểu được.
Điều đáng tiếc là khi thực thi những
gì ông đã trích dẫn và đề cao trong bản tuyên ngôn của ông, Hồ Chí Minh và các
đồng chí của ông và sau này những người nối nghiệp ông trong Đảng Cộng Sản Việt
Nam chỉ thực thi những gì ông đã suy rộng ra theo lối suy luận loại suy (độc lập
của dân tộc) mà làm ngược lại những gì đích thực về nhân quyền và quyền tự do
mưu cầu hạnh phúc của từng cá nhân con người, theo đúng nguyên bản của bản
Tuyên Ngôn Độc Lập của người Mỹ và bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của
ngưòi Pháp.
Nói cách khác, Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông trong đó có Trường
Chinh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, cũng như hậu duệ của các ông, thay vì đi
theo con đường tự do, dân chủ của các nhà lãnh đạo của cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ,
trong đó có Washington, Jefferson, dựa theo đúng tinh thần của bản Tuyên Ngôn Độc
Lập của họ mà các ông đã trích dẫn phần mở đầu, đã theo con đường của Lê Nin,
Xít Ta Lin và Mao Trạch Đông.
Hậu quả là 67 năm sau, Bà Hillary
Clinton, Ngoại Trưởng Hoa Kỳ, khi đế thăm Việt Nam đã phải công khai nhắc người
đồng nhiệm của Bà ở Việt Nam và luôn cả các ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ Tướng
Chính Phủ và Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề dân
chủ và nhân quyền ở Việt Nam. Người ta không hiểu là khi làm công việc nhắc nhở
này, Bà Clinton có biết rằng 67 năm trước Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên Ngôn Độc
Lập của ông với phần trích dẫn về nhân quyền từ bản Tuyên Ngôn Độc Lập của nước
Mỹ hay không? Người viết tin là có.
Cũng vậy với Đại Sứ David Shear
khi ông này tới thăm Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế và Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ
ở Saigon. Nhưng dù có hay không, khi trích dẫn những tài liệu này, Hồ Chí Minh
và từ đó Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã mắc một món nợ tinh thần với cả hai dân
tộc Mỹ và Pháp và nhân ngày 2 tháng 9 năm 2012 này, những ai quan tâm đến vấn đề
nhân quyền và dân quyền ở Việt Nam hiện tại, nhất là người Mỹ và người Pháp,
nên nhắc nhở những người đang nắm vai trò lãnh đạo ở quốc gia này phải tôn trọng
và thực thi những gì Hồ Chí Minh, người đã khai sáng nên chế độ của họ đã long
trọng trích dẫn và tuyên đọc 67 năm trước, cần phải “thật thà”[19] coi trọng những lý tưởng mà chính vị
“Cha Già” của họ đã viện dẫn từ hai bàn Tuyên Ngôn Độc lập của Hoa Kỳ và Tuyên
Nhân Quyền và Dân Quyền của Pháp, coi như một hình thức trả nợ mà bình thường mọi
người đều phải làm nếu không muốn mang tiếng là lừa đảo.
TS Phạm Cao Dương
[1] Dương Trung Quốc, Việt Nam: Những Sự
Kiện Lịch Sử (1919-1945). Hà Nội: Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2002, tr. 288.
[2] Lệ Thần Trần Trọng Kim, Một Cơn Gió
Bụi (Kiến Văn Lục). Saigon: Nhà Xuất Bản Vinh Sơn, 1969, tr. 49.
[3] -nt- , tr. 51.
[4] Dương Trung Quốc, Việt Nam,,,, đã
dẫn, tr.388; Nguyễn Vỹ. Tuấn, Chàng Trai Nước Việt (Chứng Tích Thòi Đại Từ
1900 đến 1970), Quyển II. Saiggon: ?, 1970. Fort Smth, AR tái bản tại Hoa
Kỳ, ?, tr. 512.
S. M. Bao Dai, Le Dragon
d’Annam. Paris: Plon, 1990. tr. ; Cameron, Alan W. Vietnam Crisis.A
Documentary History, Vol. I, 1940-1956. Ithaca, NY: Cornell University
Press, 1971, tr. 31-32; Hai bản tiếng Việt in trong tác phẩm của Dương Trung Quốc
và tác phẩm của Nguyễn Vỹ hơi khác nhau về ngôn từ nhưng hoàn toàn giống nhau về
nội dung. David G. Marr trongVietnam 1945, The Quest for Powe (Berkeley:
University of California Press, 1995), trang 71 có nói tới bản tiếng Việt và tiếng
Pháp ở văn khố Pháp và bản đăng trên tờ Dân Báo, ngày 12 tháng 3. Vũ Ngự
Chiêu cũng nói tới tờ Tin Mới, nhưng nhất thời nguời viết bài này
chưa đến được các nơi cần đến để tìm khiếm.
[5] S.M Bao Dai, Le Drafon d’Annam, tr. 104
[6] Taboulet, Georges, La geste
francaise en Indochine, histoire par les extes de la France en Indochine des
origins à 1914, tome II. Paris: Adrien-Maisonneuve, 1956, tr. 809-812;
Phan Khoang, Việt Nam Pháp Thuộc Sử, 1884-1945. Saigon: ?, 1961, tái Bản ở
Hoa Kỳ, tr. 322-328.
[7] S.M. Bao Dai, như trên.
[8] Phạm Khắc Hoè, Từ Triều Đình Huế Đến
Chiến Khu Việt Bắc. Huế: Thuận Hóa, 1987, tr. 16.
[9] S.M. Bao Dai. Le Dragon d’Annnam…, tr.
103.
[10] Võ Nguyên Giáp. “Những Năm Tháng Không
Thể Nào Quên”, trong Tổng Tập Hồi Ký. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân
Dân, 2006, tr. 255.
[11] Phạm Khắc Hoè. Từ Triều Đình Huế….,
tr. 76.
[12] Phùng Quán, Ba Phút Sự Thật.Thành
Phố Hồ Chí Minh: Nhà Xuất Bản Văn Nghệ, 2006, tr. 114-115.
[13] Hồ Chí Minh.Tuyên Ngôn Độc Lập Nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Sự Thật, 1976, tr. 13. Nguyễn Khánh
Toàn và Lữ Huy Nguyên, Tổng Tập Văn Học Việt Nam, Tập 36. Hà Nội: Nhà Xuất
Bản Khoa Học Xã Hội, 1980, tr. 812-823.
[14] -nt- , tr. 134.
[15] Patti, Archimedes L.A. Why
Vietnam? Prelude to America’s Albatross. Berkeley; University of
California Press, 1980, tr. 223.
[16] Thụy Khuê, Nói Chuyện Với Hoàng
Xuân Hãn và Tạ Trong Hiệp. CaliforniaVăn Nghệ, 2002, tr. 180-181.
[17] Trần Thanh Hiệp và Trương Giang. “Một Bản
Tuyên Ngôn Phi Nhân Quyền”, trên Nhật Báo Người Việt, số 7940, ngày Thứ
Hai, 3 tháng 9 năm 2007.
[18] Sĩ quan này là Trung Úy Dan Phelan, người
đã nhảy dù xuống gặp Hồ Chí Minh trong chiến khu của ông này vào khoảng tháng 5
hay tháng 6 năm 1945. Xin xem: Fenn, Charles, Ho Chi Minh, A
Bibliographical Introduction. New York: Scribner’s Sons, 1973, tr. 81-82;
Duiker, William J. Ho Chi Minh. New York:Hyperion, 2000, tr. 301;
Bartholomew-Feis, Dixee R The OSS and Ho Chi Minh, Unexpected Allies Against
Japan. Lawrence, Kansas: University Press of Kansas, 2006, tr. 243-244; bản dịch
tiếng Việt của Lương Lê Giang nhan đề OSS và Hồ Chí Minh, Đồng Minh Bất Ngờ
Trong Cuộc Chiến Chống Phát Xít Nhật. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Thế Giới, 2007,
tr. 367-368. Xin để ý: trong nhan đề tiếng Việt người dịch đã thêm hai chữ Phát
Xít vào tên nước Nhật mà trong nhan đề nguyên thủy tiếng Anh không có.
[19] chữ Hồ Chí Minh thường dùng.
http://www.vietthuc.org/2012/08/30/sau-muoi-bay-nam-nhin-lai-1945-2012-tu-bao-dai-den-ho-chi-minh-hai-ban-tuyen-ngon-doc-lap/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét