Thái độ bức bách hãm hại những người yêu nước của nhà cầm quyền CSVN ngày càng tăng cao. Các bản án khắc nghiệt vô lý áp đặt vào những nhà đấu tranh ôn hòa, những người cầm bút, những thanh niên sinh viên bày tỏ lòng yêu nước đã làm bàng hoàng cả thế giới.
Lãnh đạo độc đảng CSVN đã dùng "thế lực thù địch xúi giục" như một lá chắn để cưỡng bức hãm hại cầm tù người yêu nước, bóp chết tiếng nói phản kháng mà họ không biết rằng:
"Không ai có thể lấy ý riêng hoặc quyền riêng mà xui giục học trò nhúng vào quốc sự hay là cấm đoán học trò phải tránh xa quốc sự. Điều đó chỉ nhờ có lịch sử làm chứng."(Phan Khôi)
Thật vậy, mỗi lần đất nước lâm nguy gặp quốc sự là lòng yêu nước bộc phát, toàn dân cùng đoàn kết quyết tâm chống xâm lăng mà tiêu biểu là lớp trẻ. Tinh thần yêu nước quả cảm đó cần phải nuôi dưỡng, cần phải duy trì vì đó là sức mạnh của dân tộc, vì đó là chất keo để bảo vệ tổ quốc.
Mỉa mai thay, dưới chế độ CSVN độc quyền toàn trị, khái niệm quốc gia không có, họ chỉ quyết chí nối gót đàn anh Trung Quốc để thực hiện cuộc cách mạng vô sản quốc tế. Nếu không có sự chống đối mãnh liệt của toàn dân, có lẽ giờ này Việt Nam đã là một làng một tỉnh của Trung Quốc, và lãnh đạo VN đã yên tâm vì đã được Bắc Kinh bảo bọc.
Lãnh đạo độc đảng CSVN đã dùng "thế lực thù địch xúi giục" như một lá chắn để cưỡng bức hãm hại cầm tù người yêu nước, bóp chết tiếng nói phản kháng mà họ không biết rằng:
"Không ai có thể lấy ý riêng hoặc quyền riêng mà xui giục học trò nhúng vào quốc sự hay là cấm đoán học trò phải tránh xa quốc sự. Điều đó chỉ nhờ có lịch sử làm chứng."(Phan Khôi)
Thật vậy, mỗi lần đất nước lâm nguy gặp quốc sự là lòng yêu nước bộc phát, toàn dân cùng đoàn kết quyết tâm chống xâm lăng mà tiêu biểu là lớp trẻ. Tinh thần yêu nước quả cảm đó cần phải nuôi dưỡng, cần phải duy trì vì đó là sức mạnh của dân tộc, vì đó là chất keo để bảo vệ tổ quốc.
Mỉa mai thay, dưới chế độ CSVN độc quyền toàn trị, khái niệm quốc gia không có, họ chỉ quyết chí nối gót đàn anh Trung Quốc để thực hiện cuộc cách mạng vô sản quốc tế. Nếu không có sự chống đối mãnh liệt của toàn dân, có lẽ giờ này Việt Nam đã là một làng một tỉnh của Trung Quốc, và lãnh đạo VN đã yên tâm vì đã được Bắc Kinh bảo bọc.
Trí Nhân Media xin tặng bài viết của người xưa, nhà báo Phan Khôi đăng trên Đông Pháp Thời Báo Sài Gòn tháng 2/1928 như một trân trọng gửi đến tất cả đồng bào vì đấu tranh cho dân chủ tự do đất nước mà bị hãm hại đàn áp.
HỌC TRÒ ĐỜI XƯA VỚI QUỐC SỰ
Phan Khôi
Không ai có thể lấy
ý riêng hoặc quyền riêng mà xui giục học trò nhúng vào quốc sự hay là cấm đoán
học trò phải tránh xa quốc sự. Điều đó chỉ nhờ có lịch sử làm chứng.
Cứ theo
lịch sử thì học trò với quốc sự dường như có quan hệ một cách riêng.
Đương khi trong nước thái bình, trăm việc đâu ra đó, thì học trò chỉ biết một
sự học; đến khi nước lắm việc, chánh phủ đổ đốn, trong quốc dân lại không có
cái cơ quan gì chánh đáng để xét nét chánh phủ, thì bấy giờ đám học trò thường
hay giấn thân mà can thiệp vào.
Sự can thiệp ấy luôn luôn là hại cho học trò,
và cũng là một điều bất hạnh cho nước. Vì trong những cơn như vậy, thế nào học
trò cũng bị tù bị giết, và sau đó, chẳng kíp thì chầy nước cũng phải mất hay là
chánh phủ cũng phải đổ. Coi như vậy thì sự học trò can thiệp đến việc nước là
sự bất đắc dĩ, mà cũng là sự tự nhiên. Đã là bất đắc dĩ và tự nhiên, thì còn ai
xui giục hay là ngăn cấm được ư?
Xét sử Tàu, đời nhà
Đông Hán vào lúc Hoàn đế, bọn hoạn quan cầm cả quốc quyền, làm rối loạn mọi
việc chánh trị, mà vua thì hèn yếu, các quan tại triều phần nhiều thì a dua với
hoạn quan để cầu lấy giàu sang.
Bấy giờ trường Thái học có đến hơn ba vạn học
trò. Quách Thái và Giả Bưu làm lãnh tụ. Họ thấy triều chánh bậy bạ như vậy, đã
không phương cứu chữa, mà trong tay mình cũng không sẵn quyền để đánh đổ đi,
thì trong nhà trường nổi lên một thứ phong trào mới gọi là "thanh
nghị", cốt lấy cái thế lực của dư luận mà đàn hạch việc triều đình.
Nhơn
trong triều còn có Lý Ưng, Trần Phồn, Vương Sướng là mấy ông quan tốt, họ bèn
hiệp đảng với ba người nầy, khen tặng nhau mà chế bác những kẻ làm bậy. Họ chỉ
trích hết thảy, dầu kẻ có quyền thế mấy cũng không chừa. Bấy giờ từ hàng công
khanh trở xuống ai cũng phải kiêng họ, nhiều kẻ vào đến cửa họ phải bỏ giày.
Song le, bọn hoạn quan thì thù ghét đám học trò thanh nghị ấy lắm.
Lúc ấy có Vương
Thành, người Hà Nội, giỏi nghề bói, chiêm nghiệm biết rằng sẽ có ân xá, khiến
con trai mình đi giết người. Lý Ưng đương làm quan doãn Hà Nam, sai bắt giam
đứa giết người ấy. Rồi đó quả có ân xá thật. Lý tức mình, bèn kết án nó và giết
đi trước khi xá. Vương Thành nguyên lấy nghề bói giao thông với hoạn quan, nhơn
thù Lý Ưng, xúi cho đồ đệ mình là Lao Tú dâng thơ cáo rằng Lý Ưng dung dưỡng
sanh viên Thái học, giao kết với học trò các quận, lập thành bè đảng mà báng bổ
triều đình, làm hư hại phong tục.
Việc nầy xảy ra năm thứ chín hiệu Diên Hy đời
vua Hoàn đế (lịch tây 116). Vua bèn xuống chiếu bắt bọn Lý Ưng và hơn hai trăm
người học trò mà hạ ngục hết thảy. Giam cầm đã lâu mà tra ra không việc gì đáng
tội cả, vả lại nhơn có người dâng sớ can, năm sau, vua bèn tha cho "đảng
nhân" ở đâu về đó, song phải ghi tên tại quan, những người ấy cả đời không
được đi đâu, không được làm gì, gọi là "cấm cố chung thân".
Bọn đảng nhân ấy về
ở mỗi người một nơi, dầu bị cấm cố mà lại được người ta tôn trọng, thành ra cả
nước hùa theo, cái thế lực thanh nghị lại càng lừng lẫy hơn xưa.
Năm thứ hai hiệu
Kiến Ninh đời vua Linh đế (169), có kẻ chiều theo ý hoạn quan, dâng thơ vu cáo,
nói bọn đó tính làm nguy đến xã tắc. Rồi đảng Lý Ưng bị bắt lại, vì giam cùm
khảo kẹp khốc hại quá, hơn một trăm người chết mòn trong ngục. Bấy giờ dân gian
ai có thù oán gì nhau thì vu hãm nhau dễ lắm, và lại các quan châu quận theo ý
triều đình, làm khí già tay, nên tội lây vạ tràn nhiều lắm, kể hết thảy bị
giết, bị đày, bị cấm, đến sáu bảy trăm người. Sau đó lại còn cấm cố đến môn
sanh, cố lại, gia thuộc, thân thích của đảng nhân nữa.
Năm thứ nhứt hiệu
Diên Bình đời vua Linh đế (127) bà Đận Thái hậu thăng hà, có người nào không
biết, viết trên châu khuyết rằng:
"Nay thiên hạ
cả loạn, Tào Tiết, Vương Phủ (hoạn quan) thì giết Thái hậu, Hầu Lãm (hoạn quan)
thì giết nhiều đảng nhân, thế mà các quan ăn lương vua lộc nước, đều câm cả,
chẳng nói được một lời".
Vua bèn xuống chiếu
cho quan Tư lệ hiệu huý là Lưu Mãnh nã bắt kẻ viết ấy. Lưu Mãnh nghĩ cho kẻ
viết ấy nói thế là ngay thẳng, bèn không chịu nã vội, để hơn một tháng mà tìm
chưa được chánh phạm. Lưu Mãnh liền bị giáng chức, Đoàn Cảnh được thế cho Lưu
Mãnh, ra nã bắt khắp mọi nơi, bắt hơn ngàn sanh viên Thái học mà cầm vào ngục.
Việc nầy lại là khác, không đồng một án với án đảng nhân nói trên kia.
Cái án đảng nhân đó
rây rắc và dây dưa mãi đến hơn hai mươi năm, những người danh sĩ bị lâm lụy mà
chết nhiều lắm, dân gian cũng rất là đồ khổ, nhà làm sử quen gọi là "đảng
cố chi họa".
Cho đến năm thứ
nhứt hiệu Trung Bình đời vua Linh đế (184), giặc Hoàng Cân nổi lên, triều đình
mới đại xá cho đảng nhân; và sau đó ba mươi bảy năm thì nhà Hán mất nước.
(Nhẫn lên xem sách Hậu
Hán thư quyển 97, tờ 1-2-3; và quyển 108, tờ 7)
Vận động về quốc sự
một cách kịch liệt nhứt, là học trò ở đời nhà Tống.
Năm thứ bảy hiệu
Tuyên Hòa đời vua Huy tôn (1125), bấy giờ thế nhà Tống đã nguy lắm. Rợ Kim ở
phía bắc lấn vào gần tới kinh đô, còn trong triều, Thái Kinh ở ngôi thủ tướng
bấy lâu làm nhiều việc hại dân hại nước, mà chẳng hề có ai dám nói. Sanh viên
Thái học là Trần Đông bèn xuất hết thảy bọn đồng học trong trường dâng thơ cho
vua, kể tội sáu tên gian thần, tức là Thái Kinh và năm người nữa, mà xin chém
đi, loan thủ cấp đi khắp trong nước để tạ lòng thiên hạ.
Thái Kinh tuy không
vì cớ khống cáo đó mà bị tội, song đã bị bãi chức và Lý Cương lên thay. Lý
Cương là người chủ chiến, nghịch cùng bọn Lý Bang Ngạn là phái chủ hòa, lên làm
tướng thì cố việc trị binh đánh với Kim, làm cho người Kim nghi kỵ, sai sứ sang
trách vấn triều đình Tống. Tống sợ, phải bãi chức Lý Cương để được lòng người
Kim. Bấy giờ là năm thứ nhứt hiệu Tịnh Khương đời vua Cao tôn (1126).
Lần nầy Trần Đông
lại đứng đầu các sanh viên Thái học, rủ nhau hơn một ngàn người vào tại cửa
Tuyên Đức mà dâng thơ cho vua, kể tội bọn Lý Bang Ngạn và xin lưu Lý Cương lại
làm tướng.
Trong lúc dâng thơ tại nơi cửa đó, quân dân không hẹn nhau mà nhóm
lại đến vài vạn người. Khi đó vừa ưa Lý Bang Ngạn vào chầu, chúng sỉ mắng cho
một hồi, còn muốn đánh nữa, nhờ Lý ruổi mau mới thoát được. Có lịnh truyền phải
lùi ra, song chúng không chịu đi, đánh lủng trống đăng văn và kêu la vang lên.
Quan điện suý là Vương Tôn Sở thấy vậy, sợ sanh biến, khuyên vua làm theo như
lời xin. Vua bèn sai ra truyền cho chúng rằng đã có chỉ vời Lý Cương lại rồi.
Quan nội thị là Châu Cung Chi vâng mạng đi vời Lý Cương mà đi trễ, chúng xúm
nhau đánh chết, lại còn đánh chết vài mươi nội thị khác nữa. Vua phải cho
Thượng thơ Hộ bộ là Nhiếp Xương ra truyền dụ chỉ, chúng mới chịu tan.
Lý Cương quả lại
được làm tướng như cũ. Song le, ngày hôm sau, vua xuống chiếu bắt làm tội những
kẻ nào vi thủ trong việc đánh chết các nội thị, và cấm không ai được đến cửa
khuyết dâng thơ. Có người xin hạ ngục hết thảy sanh viên Thái học, nhưng rồi
không, muốn cho êm việc, vua chỉ dùng Dương Thời là nhà đại nho lên làm chức Tế
tửu (ông đốc trường Thái học) để trấn tịnh đám học trò mà thôi. Có người lại
tâu xin cho Trần Đông làm quan để bưng mồm va lại, song Đông nhứt định từ chối
không chịu.
Việc nầy chẳng khác
gì một cuộc "mê-tin"(*) đời nay, mà là một cuộc mê-tin ghê gớm, có
đến đổ máu nữa.
Qua năm thứ nhứt
hiệu Kiến Viêm đời vua Cao tôn (1127), nhà Tống vì sợ giặc Kim, đã dời kinh đô
qua phía nam Dương Tử giang rồi. Bấy giờ tại triều lại có Hoàng Tiềm Thiện và
Uông Bá Ngạn, cũng là phái chủ hòa nghịch với Lý Cương, mà vua lại tin dùng hai
người nầy và bãi chức Lý Cương lần nữa. Trần Đông bèn dâng thơ xin cầm Lý Cương
lại và bãi Uông, Hoàng đi. Lại xin trị tội các tướng không tiến binh, xin vua
đừng ngự đi Kim Lăng để cho khỏi day động lòng người. Hoàng Tiềm Thiện kiếm lời
khêu chọc vua, nói rằng phải giết Trần Đông đi, nếu không thì nó lại cổ động sĩ
dân làm như năm trước. Vua cho phép. Quan phủ doãn là Mạnh Dũ cho đòi Trần
Đông, Đông xin ăn xong sẽ đi. Ăn xong lại đi đằng sau, kẻ sai nha có ý ngại,
Đông nói rằng: "Ta là Trần Đông đây, sợ chết thôi thì đã chẳng dám nói; mà
đã nói, đâu thèm tránh cái chết?" Rồi Đông trở vào, đội mũ mặc áo, đi chào
bạn đồng học, và bị dẫn ra chém giữa chợ. Đông vốn không quen với Lý Cương, chỉ
vì việc nước xin lưu Lý lại mà phải chết, ai nấy nghe thấy đều sa nước mắt.
Đến đời vua Lý Tôn,
năm thứ tư hiệu Thuần Hựu (1244), lại có việc bọn Hoàng Khởi Bá kiện Sử Tung
Chi. Sử là một tay gian thần, bấy giờ đương làm tướng, gặp tang cha, theo lệ
phải về đình gián, song được vua cầm ở lại. Hoàng Khởi Bá đứng đầu một trăm bốn
mươi sanh viên Thái học, dâng thơ nói Tung Chi gian nịnh, liên kết với hết thảy
triều thần và đám hoạn quan đặng bám chặt lấy ngôi thừa tướng, vậy xin vua phải
đuổi ngay về. Lại có các sanh viên trường Võ học là Ông Nhựt Thiện, trường Kinh
học là Lưu Thời Cử, trường Tôn học là Triệu Dữ Hoàn rủ hết thảy học trò ba
trường ấy đứng ra làm thanh viện cho trường Thái học mà dâng thơ can vua
về sự cầm Sử Tung Chi. Song vua không nghe. Lưu Nại, sanh viên trường Võ, biết
ý vua muốn dùng Tung Chi, bèn phản lại bốn trường, dâng thơ nói học trò xách
tên một vị đại thần ra mà mắng nhiếc như thế là vô lễ, không còn gì là thể
thống triều đình. Tuy vậy, bên học trò lại càng hăng, họ nhứt định rủ nhau
"bãi khóa" để đối phó lại việc ấy. Bấy giờ tại nơi nhà cầu trường
Thái học có giấy dán rằng:
"Hễ thừa tướng
vào buổi mai thì sanh viên ra buổi chiều, thừa tướng vào buổi chiều, thì sanh
viên ra buổi mai".
Kế đó, quan phủ
doãn là Triệu Dữ Trù định hạ lịnh đuổi học trò. Các sanh viên nghe thế, bèn làm
một bài văn, gọi là Quyện đường văn mà đưa cho nhau như kiểu "truyền
đơn" đời nay, một đoạn cuối bài ấy nói rằng:
"Họ đã vị lợi
riêng mình mà đuổi học trò, thì học trò không mặt mũi nào còn ở nữa.
Nếu tham sự no ấm
mà ở lại thì rồi sẽ bị chôn như học trò đời nhà Tần.
Hễ bài văn nầy ra,
nội trong ngày mai phải đi lập tức".
ấy là họ thực hành
được cái kế hoạch bãi khóa. Mà cuộc bãi khóa nầy được thắng lợi, vì Sử Tung Chi
thấy công luận không dung mình, cũng sợ, bèn xin về chung chế.(**)
Qua năm sau (1245),
hai ông quan tại triều đình là Từ Nguyên Kiệt và Lưu Hán Bật bị bọn gian thần
đầu độc mà chết, sanh viên Thái học là Thái Đức Nhuận với một trăm bảy mươi ba
người nữa dâng thơ kiện oan. Vua bèn xuống chiếu cấp ruộng và tiền cho hai vị
đại thần chết oan ấy.
"Phải chi
triều đình bấy giờ lấy sự phải trái của họ làm phải trái, thì những kẻ gian tà
đạo tặc đã khiếp sợ dưới cái uy chánh khí, rồi vua cũng an mà nước cũng có thể
giữ được. ấy vậy mà luận giả lại cứ cho những việc ấy là "việc đời loạn".
Luận giả không đổ(***) cái tội làm mất nước cho những người bắt giết học trò,
huỷ phá học hiệu, trở lại trách móc học trò, là nghĩa gì?
Theo lời Hoàng Lê
Châu đó, thì sự học trò can thiệp việc nước không những là sự bất đắc dĩ và sự
tự nhiên, mà lại là lẽ đương nhiên. Ông chẳng thèm nói xa nói gần gì hết, cứ
nói thiệt tình rằng nhà nước phải lấy học hiệu làm cơ quan chánh trị, nói mồn
một rằng các việc mà người ta cho là "việc đời loạn" đó, là gần với
phong tục Tam đại!
Về việc học trò đời
xưa với quốc sự, lịch sử chép như vậy, các người hiền triết chủ trương như vậy,
thế mà người Tàu ngày nay chừng như không có mấy người xét đến và hiểu đến.
Năm mười năm nay,
bên Tàu có xảy ra luôn luôn những sự học sanh vận động về chánh trị, nổi tiếng
hơn hết là cuộc "Ngũ tứ vận động" và "Lục tam vận động".
Bấy giờ có nhiều vị chủ bút nhà báo, nhứt là mấy vị lão thành, hay phàn nàn về
sự đó. Cái chỗ họ căn cứ mà lập luận là: học trò đương buổi thanh niên phải lo
học cho thành tài để ngày sau giúp nước, chứ không nên giấn thân vào quốc sự
trong khi còn ở nhà trường, vì sợ thiệt đến mình tức là hại cho nước chăng. Lại
có vị hình như chẳng đọc chữ sử nào hết, đến nỗi nói rằng các cuộc học
sanh vận động đó là nhiễm lấy cái thói học sanh bên Âu Mỹ, rồi lại than thở cho
cái văn minh Âu Mỹ đời nay đến mà phá đổ phong tục tốt của người Tàu đời
xưa! Trong khi tôi đọc qua những bài luận ấy biểu tôi đừng hé răng mà cười sao
được! biểu tôi đừng bĩu môi mà trề sao được!
Tôi viết bài khảo
cứu nầy cũng khá gọi là kỹ, song có một điều còn chưa được mãn nguyện -- chưa
mãn nguyện cho tôi và cũng cho độc giả -- là tôi không nhắc đến được ít nhiều
tài liệu cùng một thứ trong lịch sử nước ta. Theo tôi nhớ, sử nước ta không
thấy có chuyện nào giống như vậy. Cái đó có lẽ là tại các nhà làm sử bỏ sót. Cứ
như tôi biết, trong một tỉnh Quảng Nam chúng tôi, sáu bảy mươi năm trở lại đây,
cũng có vài việc gọi được là một cuộc vận động nho nhỏ về quốc sự của đám học
trò, thì lẽ nào cả nước ta, chốc ngàn năm nay, ít ra lại không có năm bảy việc
như vậy ư? Tôi kể mấy việc ấy ra đây để thúc kết bài khảo cứu nầy.
Về đời Tự Đức,
không biết năm nào, ông Đặng Kham, người Bắc Ninh làm án sát Quảng Nam. Ông nầy
tham ô có tiếng. Có một lần, tại tỉnh hạch học trò, đêm trước ngày hạch, hàng
mấy ngàn học trò ở ngoài thành ồn lắm, đâu đâu cũng xấm xi xấm xải, thì quan
tuần sức cho sở tuần thành phải coi chừng cẩn thận. Sáng ra, họ vẫn vào hạch
như thường, song ở bốn cửa thành có nhiều tờ giấy chữ của ai dán không biết,
lính gỡ đem vào trình quan tuần, thì ra những giấy ấy chép rập một bài văn tứ
lục kể tội quan án, như vầy:
Mèo đen cấu khí
Rùa mốc xì thơm
Họ là Đặng mà người
coi chẳng đặng
Tên là Kham mà dân
chịu không kham
Đốc học Thưởng làm
nanh làm vút,
Tri phủ Đôn làm
cánh làm vây.
Bạc Cẩm Sa (làng)
mười lạng rành rành, không ăn vì sợ nghè Tường...
Người thuật lại chỉ
nhớ bài ấy được có bấy nhiêu.
[...] quan tuần
phải niêm những tờ giấy ấy và thảo sớ mà đệ về bộ nhờ bộ dâng lên. Bấy
giờ vua Dực Tôn sai Khâm phái về tra, quả nhiên giấy ấy nói thật cả, quan
án Đặng Kham liền bị cách chức và lạc hồi dân tịch.
Tháng chạp năm Kiến
Phước nguyên niên (1884), ở phủ Điện Bàn hạch học trò (hạch nầy để kén học trò
lên hạch tại tỉnh lần nữa rồi ai có dự hạng mới được đi thi, vì năm sau đến
khoa thi). Trong đêm mà sáng ra đến ngày hạch, học trò tựu tại phủ có đến mấy
ngàn.
Bỗng dưng có người cổ động lên, dán giấy rải tờ, đại ý nói nước nhà sắp
đến ngày nguy vong tới, sĩ phu phải lo liệu làm sao, không còn nên thi cử làm
chi nữa, cũng không nên hạch nữa. Mà quả thế, sáng ra, khi xướng tên vào
trường, không có một trò nào chịu dạ cả, rồi học trò lần lần tan về, cuộc hạch
ấy phải bãi đi.
Dầu mấy hôm sau có tục hạch, và học trò phủ Điện khoa năm ấy
cũng đi thi, song giữa những ngày sắp thi, nghĩa là vào hạ tuần tháng năm năm
ất dậu, Hàm Nghi nguyên niên (1885), học trò các tỉnh đã tụ tại Huế, thì kinh
thành bị thất thủ.
Sự học trò bãi khóa
dường như ở xứ ta ngày xưa cũng đã có. Điều đó lấy chứng cớ trong một câu hát
mà đàn bà trẻ con thường hát. Ngẫm nghĩ câu hát đây thì ra như đám học trò nào đó
bị ngược đãi, không chịu được sỉ nhục mà phải rủ nhau bỏ trường không học nữa,
cho nên nói rằng:
"Thôi thôi cắp
sách ra về,
Học hành chi nữa
chúng chê bạn cười !"
Đông Pháp
thời báo, Sài Gòn,
. 685 (21.2.1928);
s. 686 (23.2.1928);
s. 687 (25.2.1928);
s. 689 (1.3.1928).
---------------
* mê-tin: có lẽ tác giả phiên âm từ meeting; * về chung chế: về chịu tang cho đến mãn tang.
*** bản gốc là không đo, NST sửa lại là không đổ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét